History of African Poetry Content and Form

    History of African Poetry Content and Form

    Content

    The content of African poetry, is made of themes that emanate from the African background. This background, as you will recall, consists essentially of experiences of colonial and post-colonial eras. The details of these experiences involve firstly a clash of cultures which featured in the initial colonial contact between Africa and the West. Western culture, which was the culture of the colonialists, was superimposed on the African culture of the colonized. A clash of cultural values emerged as the African culture resisted this superimposition.

    This cultural clash became a ready theme or element for many African poets. Okot p’Bitek explores it well in the two poems he wrote “The Graceful Griraffe cannot become a Monkey” and ‘My Name Blew like a Horn among the Payira.’ p’Bitek protests against the superimposition of the White culture on African culture.

    Exile and alienation are two important elements in African poetry that resulted from colonial contact especially in areas of Africa colonized by the French. For example, Senegal. In these places, the French practiced a policy of assimilation whose aim was to turn the Africans into black Frenchmen. These Africans imbibed so much of the white culture of the French that they virtually lost their identity as Africans. The result was that they were alienated from their African roots and, as it often happened, went to live in France, thus exiling themselves even physically. Senghor in ‘in Memoriam’ and ‘I will pronounce Your Name’ protests vehemently against this experience.

    Do not be misled into thinking that African poetry is made up of only themes that concern Africa and Africans. That is, themes that are localized. Some African poets write about themes that could apply to any part of the world. The example we have here of such universal themes is in ‘Soyinka’s ‘Telephone conversation’ which deals with the issue of racism and his ‘post mortem’ which deals with the theme of death. The poet’s response to these issue is that racism is irrational and a hateful evil. Death in Soyinka’s view is unfathomable and therefore not worthy of man’s consistent but futile probe.

    African poetry covers very many themes, both local and universal, depending on the experiences Africa and Africans have gone through.

    Style

    In terms of style, African poetry is written mainly in free verse which is common among many modern poets. It is not written according to any fixed rules, forms or conventions. The form which African poetry takes is governed by the subject – matter that are treated. Free verse allows for freedom of expression and style.

    Instead of using rhyme, rhythm, metre or other fixed forms to enhance their meaning, African poets employ other poetic devices in skillful ways that enable them to achieve the same effect as those achieved by the use of fixed rules and conventional forms.

    On a final point: Remember that we are not saying African poets do not use devices like rhyme, rhythm, meter, sonnects etc. They occasional use these devices but they do not particularly make them convey the meanings of their poems as they make the devices we have just discussed embellish their meaning.


    Lịch sử thơ ca châu Phi Nội dung và hình thức

    Nội dung

    Nội dung của thơ ca châu Phi được tạo thành từ các chủ đề xuất phát từ bối cảnh châu Phi. Bối cảnh này, như bạn sẽ nhớ lại, về cơ bản bao gồm các trải nghiệm của thời kỳ thuộc địa và hậu thuộc địa. Chi tiết của những trải nghiệm này trước tiên liên quan đến sự xung đột giữa các nền văn hóa, đặc trưng trong sự tiếp xúc thuộc địa ban đầu giữa châu Phi và phương Tây. Văn hóa phương Tây, vốn là văn hóa của những người thực dân, đã được chồng lên văn hóa châu Phi của những người bị thực dân hóa. Một cuộc xung đột giữa các giá trị văn hóa đã xuất hiện khi văn hóa châu Phi chống lại sự chồng chéo này.

    Cuộc xung đột văn hóa này đã trở thành chủ đề hoặc yếu tố sẵn có đối với nhiều nhà thơ châu Phi. Okot p’Bitek đã khám phá điều này rất tốt trong hai bài thơ ông viết “The Graceful Griraffe cannot become a Monkey” và ‘My Name Blew like a Horn among the Payira’. p’Bitek phản đối sự chồng chéo của văn hóa da trắng lên văn hóa châu Phi.

    Lưu vong và xa lánh là hai yếu tố quan trọng trong thơ ca châu Phi xuất phát từ sự tiếp xúc thuộc địa, đặc biệt là ở các khu vực châu Phi do người Pháp chiếm đóng. Ví dụ, Senegal. Ở những nơi này, người Pháp đã thực hiện chính sách đồng hóa với mục đích biến người châu Phi thành người Pháp da đen. Những người châu Phi này đã hấp thụ quá nhiều nền văn hóa da trắng của người Pháp đến nỗi họ gần như mất đi bản sắc của người châu Phi. Kết quả là họ bị xa lánh khỏi nguồn gốc châu Phi của mình và, như thường lệ, đã chuyển đến sống ở Pháp, do đó, họ thậm chí còn tự lưu đày mình về mặt thể xác. Senghor trong ‘In Memoriam’ và ‘I will pronunciation Your Name’ đã phản đối kịch liệt trải nghiệm này.

    Đừng để bị hiểu lầm rằng thơ ca châu Phi chỉ bao gồm các chủ đề liên quan đến châu Phi và người châu Phi. Nghĩa là, các chủ đề mang tính địa phương. Một số nhà thơ châu Phi viết về các chủ đề có thể áp dụng cho bất kỳ nơi nào trên thế giới. Ví dụ chúng ta có ở đây về các chủ đề phổ quát như vậy là trong ‘Telephone conversation’ của Soyinka, tác phẩm này đề cập đến vấn đề phân biệt chủng tộc và ‘post mortem’ của ông, tác phẩm này đề cập đến chủ đề về cái chết. Phản ứng của nhà thơ đối với những vấn đề này là chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là phi lý và là một điều xấu xa đáng ghét. Theo quan điểm của Soyinka, cái chết là điều không thể hiểu thấu và do đó không xứng đáng để con người tìm hiểu liên tục nhưng vô ích.

    Thơ ca châu Phi bao gồm rất nhiều chủ đề, cả địa phương và toàn cầu, tùy thuộc vào những trải nghiệm mà châu Phi và người châu Phi đã trải qua.

    Phong cách

    Về phong cách, thơ ca châu Phi chủ yếu được viết theo thể thơ tự do, thể thơ này phổ biến trong nhiều nhà thơ hiện đại. Thơ không được viết theo bất kỳ quy tắc, hình thức hay quy ước cố định nào. Hình thức mà thơ ca châu Phi sử dụng được chi phối bởi chủ đề – vấn đề được xử lý. Thơ tự do cho phép tự do thể hiện và phong cách.

    Thay vì sử dụng vần điệu, nhịp điệu, nhịp thơ hoặc các hình thức cố định khác để nâng cao ý nghĩa của chúng, các nhà thơ châu Phi sử dụng các biện pháp thơ khác theo những cách khéo léo cho phép họ đạt được hiệu ứng tương tự như những biện pháp đạt được bằng cách sử dụng các quy tắc cố định và hình thức thông thường.

    Về điểm cuối cùng: Hãy nhớ rằng chúng tôi không nói rằng các nhà thơ châu Phi không sử dụng các biện pháp như vần điệu, nhịp điệu, nhịp thơ, sonnect, v.v. Họ thỉnh thoảng sử dụng các biện pháp này nhưng họ không thực sự sử dụng chúng để truyền tải ý nghĩa của bài thơ vì họ sử dụng các biện pháp mà chúng tôi vừa thảo luận để tô điểm cho ý nghĩa của chúng.

    Source by Chima Tim | Welcome to The Poetry Court: AFRICAN POETS ENCYCLOPEDIA 3 – 2017

    Redress of Poetry – Liệu một nhà thơ có thể làm thỏa mãn công chúng thông qua thơ ca không?

    Redress of Poetry – Can a Poet Redress Through Poetry?

    The Redress of Poetry – Is this the duty of a poet to redress through poetry?

    Poetry gives an ideal world which removes the defects of the world of fact since ideal presents a perfect picture of imperfect world. By redress we mean satisfaction, compensation for a wrong sustained or our loss against result to rise again in an upright position. This is the dictionary definition of redress.

    The word ‘redress’ stands for reparation, restoration, to rectify something that is incorrect. The subject that Seamus Heany treated in ‘The Redress of Poetry’ is not new. The nature and purpose of poetry has been a subject of practical importance for all those who are interested in poetry.

    By redress Heany means to correct something that is unfair or wrong. It also means consolation, compensation, improve or reassure. So redress of poetry means to remove or correct wrong notions that exist in the prevailing world. The question of redress of poetry contains whether the poetry is of any use, whether it gives confidence to man, whether it gives some assurance or not, whether it’s an aesthetic work or a pragmatic work.

    Having defined the meaning of redress I will now discuss whether a poet can redress through poetry? Is this his/her duty to redress through poetry?

    In my opinion a poet is an important part of a nation who not only can redress through poetry but also can restore a nation’s pride, can rectify the wrong doings and also can amend the status of a nation. In support of my notions I would like to place the example of Dr. Allama Muhammad Iqbal, titled as ‘the poet of east’. He not only redressed through his poetry but also lay a path towards reassurance and improvement, restoration and rejuvenation of a swooned nation.

    Poetry is not just the words of defining the physical appearance of one’s beloved, or explaining the facial expressions of a beauty you come across in your daily life and fall in love at first sight or so. Poetry is the voice of one’s deepest innermost. It is not limited or should not be limited to merely defining the beloved’s traits or one’s feelings about the beloved or just making a confession of falling in love.

    Poetry has a vast canvas to cover, to paint a picture of the broad and limitless world. It deserves the explanations of destiny of humankind, destination of humans and also can lead a way how a human being can turn to being human.

    The poetry of Allama Iqbal inculcates the spirit and feelings of restoration from deterioration. The poetry of Allama Iqbal redressed in a shape that levitated a nation from inhibition to freedom.

    Having said that, I am very much assure that a poet can redress through poetry, need is to realize his/her duties and put the divine thoughts of poetry in a right path to redress through poetry.


    Redress of Poetry – Liệu một nhà thơ có thể Redress thông qua thơ ca không?

    Redress of Poetry – Đây có phải là nhiệm vụ của một nhà thơ để Redress thông qua thơ ca không?

    Thơ ca đưa ra một thế giới lý tưởng loại bỏ những khiếm khuyết của thế giới thực tế vì lý tưởng trình bày một bức tranh hoàn hảo về thế giới không hoàn hảo. Khi nói Redress, chúng ta có nghĩa là sự thỏa mãn, đền bù cho một sai lầm đã chịu đựng hoặc mất mát của chúng ta đối với kết quả để đứng dậy một lần nữa ở vị trí thẳng đứng. Đây là định nghĩa từ điển của Redress.

    Từ ‘redress’ có nghĩa là sửa chữa, phục hồi, để sửa chữa một cái gì đó không đúng. Chủ đề mà Seamus Heany đề cập trong ‘The Redress of Poetry’ không phải là mới. Bản chất và mục đích của thơ ca là một chủ đề có tầm quan trọng thực tế đối với tất cả những ai quan tâm đến thơ ca.

    Khi nói Redress, Heany có nghĩa là sửa chữa một cái gì đó không công bằng hoặc sai. Nó cũng có nghĩa là an ủi, đền bù, cải thiện hoặc trấn an. Vì vậy, Redress of Poetry có nghĩa là xóa bỏ hoặc sửa chữa những quan niệm sai lầm tồn tại trong thế giới hiện hành. Câu hỏi về sự đền bù của thơ ca bao gồm liệu thơ ca có hữu ích hay không, liệu nó có mang lại sự tự tin cho con người hay không, liệu nó có mang lại sự đảm bảo hay không, liệu nó là một tác phẩm thẩm mỹ hay một tác phẩm thực dụng.

    Sau khi định nghĩa ý nghĩa của sự đền bù, giờ tôi sẽ thảo luận xem liệu một nhà thơ có thể đền bù thông qua thơ ca hay không? Đây có phải là nhiệm vụ của anh ấy/cô ấy để đền bù thông qua thơ ca không?

    Theo tôi, một nhà thơ là một phần quan trọng của một quốc gia, người không chỉ có thể đền bù thông qua thơ ca mà còn có thể khôi phục lòng tự hào của quốc gia, có thể sửa chữa những hành động sai trái và cũng có thể sửa đổi vị thế của một quốc gia. Để ủng hộ quan điểm của mình, tôi muốn nêu ví dụ về Tiến sĩ Allama Muhammad Iqbal, được mệnh danh là ‘nhà thơ phương Đông’. Ông không chỉ đền bù thông qua thơ ca mà còn mở đường cho sự an tâm và cải thiện, phục hồi và trẻ hóa một quốc gia đang say đắm.

    Thơ ca không chỉ là những từ ngữ định nghĩa ngoại hình của người mình yêu, hoặc giải thích biểu cảm khuôn mặt của một người đẹp mà bạn tình cờ gặp trong cuộc sống hàng ngày và phải lòng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Thơ ca là tiếng nói của sâu thẳm bên trong mỗi người. Thơ ca không bị giới hạn hoặc không nên giới hạn chỉ ở việc xác định những đặc điểm của người mình yêu hoặc cảm xúc của mình về người mình yêu hoặc chỉ đơn giản là thú nhận rằng mình đang yêu.

    Thơ ca có một bức tranh rộng lớn để bao phủ, để vẽ nên bức tranh về thế giới rộng lớn và vô hạn. Thơ ca xứng đáng được giải thích về số phận của loài người, đích đến của con người và cũng có thể dẫn lối cho con người trở thành con người.

    Thơ ca của Allama Iqbal thấm nhuần tinh thần và cảm xúc phục hồi sau sự suy thoái. Thơ ca của Allama Iqbal đã khắc phục theo một hình thức đưa một quốc gia từ sự ức chế lên đến tự do.

    Nói như vậy, tôi rất chắc chắn rằng một nhà thơ có thể khắc phục thông qua thơ ca, cần phải nhận ra nhiệm vụ của mình và đưa những suy nghĩ thiêng liêng của thơ ca vào đúng con đường để khắc phục thông qua thơ ca.

    Source by Kamran Iftikhar


    The Redress of Poetry (1995) Summary by Seamus Heaney: A Critical Analysis


    TUẦN THƠ 41: HẠNH PHÚC & KHỔ ĐAU

    Jacqueline Gnott
    Jacqueline Gnott
    Hoàng Huy Hùng

    NIỀM VUI TRẺ THƠ

    Luồng gió thổi mang niềm vui tới
    vào lối cửa chính một shop hàng
    có những cậu bé búp bê những
    cô bé búp bê búp bê treo lủng
    lẳng đung đưa đang múa và đang
    hát có niềm vui chung từ cơn
    gió theo từng bước chân bé con
    của một cậu bé con mới biết
    đi đi bên người bố đang trìu
    mến trìu mến âu yếm xoa đầu
    con trai bé bỏng – cậu bé vui
    cười ôm lấy chân bố để bé
    cảm nhận niềm hạnh phúc trẻ thơ


    Trần Thị Minh Nguyệt

    CHO ĐẾN KHI NGỪNG THỞ

    Ngán ngấy cái nhìn gầm gừ của
    tên chủ và căn apartment như lò
    bánh mì, tôi thèm ôm rừng – nhớ
    gió, đói ngàn ngọn cây xanh, tương

    tư chim véo von. Được mời đi –
    anh phóng xe như điên – cắn
    răng giữ tim không rớt trên freeway
    mong anh đừng biết tôi đang đổi

    sợ hãi, mạng sống lấy hạnh phúc phía
    trước. Đam mê đổi mọi thứ có
    được để lấy hạnh phúc
    dù chưa hề giữ được hạnh phúc.

    Hôm kia tôi là nước trôi tuột
    anh hứng giữ chút mượt mà, nhâm
    nhi, thưởng thức và mất ngủ. Hôm
    qua tôi là chiếc hôn sâu, rất

    thật ở tuổi 45, anh ngã. Hôm
    nay tôi là cơn đói thế kỷ
    không biết chán không biết no không
    biết dừng, cho đến khi ngừng thở.

    Tháng 9 / 2003

    Đình Nguyên

    GỌI LÀ SỐNG

    Những cái chết không được
    báo trước. Có ai biết
    trước sẽ chết lúc nào.
    Chuyến bay định mệnh là

    chuyến mà lần kề cận
    với tử thần đầu tiên
    và cũng là cuối cùng.
    Chẳng đi đâu cả chỉ

    làm đúng nghĩa tầm mức
    dịch chuyển cần thiết, mà
    chết đột ngột vì cả
    tòa nhà sụp đổ, thì

    gọi là ngày định mệnh
    chăng? Có phải hai chữ
    định mệnh hay được áp
    đặt cho những cái chết

    không được báo trước. Như
    vậy chưa từng đi đâu
    chưa từng làm gì, mà
    đã biết mình chết ngay

    từ lúc bắt đầu, gọi
    là gì cho chính xác!
    Chết lần mòn chết từ
    từ gọi là sống nhé.


    CALL IT LIVING

    Dying without prior notice.
    Who knows ahead the hour of
    death. The fateful flight is the
    flight destined for a meeting

    with the angels of death, for the
    first and also the final time.
    Nowhere to go only to
    make the necessary appointment,

    but to die suddenly because
    an entire building collapses,
    that is what is called destiny,
    is it not? Isn’t destiny

    what we call dying
    without prior notice? So
    that one has not gone anywhere,
    not yet done anything, but

    already knows that death is
    sudden from the start, what
    to call it precisely! To
    die gradually is to live.


    30082004

    Đinh Cường

    CÓ KHUÔN MẶT AI NHƯ

    Tôi vẽ tảng đá rồi mỗi ngày
    cứ ngồi nhìn trên những đường nứt
    có đường nào là lời sám hối
    không phải bên tảng đá năm xưa

    Đức Giáo Hoàng đã đến sám hối
    tôi bỏ quên lớp rong rêu ngoài
    thành nội có con chim mùa hè
    cứ kêu hoài bắt cô trói cột

    như tiếng quê hương ngày lửa đạn
    tràn về thành phố chúng tôi chạy
    theo đoàn người trên quốc lộ một
    có mây bay trên đèo Hải vân

    đưa tôi đến phương nào khỏi Huế
    để bây giờ mùa thu trở lại
    mùa thu Virginia người ta
    đi xem lá vàng trên skyline

    mà sao tôi vẽ tảng đá như
    đứng sững có khuôn mặt ai như
    em nhìn xuống ký ức chìm lỉm
    vực sâu tôi hú tiếng vang dài…


    LIKE SOMEONE’S FACE

    I draw a pile of rocks and then every
    day I sit and look at its cracked lines
    to see if any of them were repentances
    like the rock piles where the Pope repented.

    I’ve forgotten about the moldy patches
    outside of the citadel where a bird keeps
    chirping, like the sounds of the homeland
    under fire-storms that hit the city, when

    we ran with hordes fleeing along highways
    while clouds traversed Hải Vân Pass taking me
    to some place beyond Huế. Now autumn has
    returned, a Virginia autumn, when

    people go to view yellow leaves at the
    sky line. But why do I draw this rock pile, a
    frozen stare, like someone’s face looking down
    on the past, sunken deep into echoes?

    Virginia, 5. 2000

    Trầm Phục Khắc

    THỜI GIAN ÐÃ CƯỚP ÐI CỦA TÔI

    Người đàn bà đẹp người đàn
    bà đẹp ngồi nơi chiếc ghế, người đàn
    bà đẹp người đàn bà đẹp
    ngồi trong không gian, trong không gian thơm
    thơm mùi im lặng… lặng im
    mùi thơm… người đàn bà ngồi im lặng

    ÐIÊU KHẮC VỚ VẨN

    Kim lặng lẽ và đẹp
    như một pho tượng nên
    cả hai cùng toát ra
    mùi hương bí ẩn của
    thời gian

    thời gian vẫn trôi đi
    mùi hương vẫn trôi đi
    pho tượng vẫn lặng lẽ và Kim vẫn là Kim
    bí ẩn

    pho tượng ai cho tôi
    mà tôi bâng khuâng mà
    căn phòng bâng khuâng mà
    thời gian bâng khuâng nhưng
    tại sao pho tượng không
    phải là Kim và Kim
    vẫn muôn đời không phải
    là pho tượng

    thôi nghe Kim hãy bước
    đi Kim hãy bước ra
    khỏi Kim hãy bước ra
    khỏi bài thơ hãy bước
    ra khỏi pho tượng hãy
    bước ra khỏi thời gian
    và hãy bước ra khỏi
    mùi hương bí ẩn.


    Biển Bắc

    KÝ ỨC CỦA TƯƠNG LAI

    Đêm cũng cứ thế và ban
    ngày vẫn vậy ánh sáng cùng
    bóng tối luân phiên gác ngoài
    cửa hành lang chỗ Lai là
    Không gian của năm tháng đóng
    chặt lẩn trốn không muốn giáp
    mặt với kết thúc khi bóng
    tối hoặc ánh sáng giật sập
    Cánh cửa bật ập vào chánh
    giữa mang theo nó vào chốn
    Lai là không gian của ngày
    giờ thả cửa cận kề không
    Muốn chia tay với bắt đầu
    khi bóng tối cùng ánh sáng
    luân phiên nhau tập vào mang
    theo bắt đầu của kết thúc

    (cuối 1, không 12)

    BẤT CHỢT

    Chiều qua ý niệm về
    cái chết bất chợt tạt
    ngang qua sống mũi nàng
    đang hít thở làm cho
    nàng nín thở bởi tuy

    Đã có hẹn sẽ một
    lần ý niệm về cái
    chết và cái chết bạt
    ngang cuộc sống nhưng
    không cụ thể về thời

    Điểm nên đã làm cho
    nàng sửng sốt rồi hoảng
    hốt khi chúng trong một
    chiều qua đây trấn lột
    trần sự thật ướp xác

    Trong không gian đứng thở
    dốc chí theo đuổi hạnh
    phúc trong những ấp ủ
    quá khứ cùng hy vọng
    tương lai mà nàng cho


    Rằng là sự sống nên
    nàng luôn tránh mặt cái
    chết và ý niệm về
    cái chết cho đến khoảnh
    khắc này bất chợt nàng

    Thấy ra chúng rất đáng
    trân trọng và tôn trọng
    vì chúng là lẽ cho
    nàng sống thật sống ở
    đây và ngay bây giờ …

    (đầu 6, không 12)

    Nguyễn Lương Ba

    CĂN NHÀ Ở VÂN DƯƠNG

    Tôi đứng nơi hàng hiên
    căn nhà có mái che
    phủ nhìn ra bầu trời
    xám gió trong bóng dáng

    căn nhà chỉ còn là
    cái mái che với những
    khung cửa gian phòng yên
    lặng đốt lên hình ảnh

    chỉ còn là bóng em
    kín đầy gian phòng yên
    lặng này thật là yên
    lặng một cái gì mong

    manh dang dở phải anh
    nhớ căn nhà long lanh
    với cái khung cửa gian
    phòng còn lại em ngọn

    đèn bên khu vườn u
    tối bài học nủa đêm
    tiếng dế râm ran ôi
    mưa tí tách căn nhà

    có mái che lạnh lùng
    mưa rơi tí tách anh
    nhớ anh nhớ đường về
    em Chi Em Diệp đó

    tình yêu để làm gì?
    anh về lại nơi đây
    đứng đây yên lặng nghe
    nhớ lại nghe những lời

    âu yếm ngày nào em
    đạp xe ngang gian phòng
    YÊNZ lặng này với cái
    khung cửa anh vẫn thường

    nói thật to em đạp
    xe ngang em cứ đạp
    xe ngang và anh cứ
    nói thật to nhiều khi

    cũng khùng em cứ đi
    tà áo thiết tha trên
    đường em đi những ngày
    tôi đã trở về đây.


    Khế Iêm

    KHỔ ĐAU

    Viết cho ba người em

    Bởi sinh ra vào nơi khổ đau
    và đã qua hết đường đau khổ
    nên mới đủ nhận biết rằng nỗi
    khổ đau cứ lớn dần lớn dần

    cho đến khi không thể tù túng
    mãi trong thân xác và thân xác
    cũng quá còm cõi không thể chịu
    đựng nỗi khổ đau nên chăng bắt

    đầu cuộc phân ly nước mắt nước
    mắt phân ly khổ đau giã từ
    thân xác thân xác giã từ khổ
    đau và chúng ta cũng phải giã

    từ nhau dù rằng đã sống với
    nhau trong tình anh em rất lâu
    khởi từ một duyên cớ tình cờ
    nào … Thân xác trở về đất mẹ

    vĩ đại còn khổ đau tan biến
    vào bầu trời để rồi chẳng còn
    khổ đau chẳng còn thân xác trong
    bước độc hành về đi chốn khác.

    Thôi, hãy yên nghỉ, hỡi người anh
    em thân thiết năm nào, hãy yên
    nghỉ, lắng nghe đất với trời đang
    tàn theo khúc nhạc chiều tàn.

    SUFFERING

    For three young brothers

    Because you were born into suffering
    and having traveled all the paths of
    suffering and thus capable of
    understanding that suffering grows and

    grows until it can no longer be
    forever imprisoned in bodies and
    bodies are too wasted to bear the
    suffering and thus perhaps that is why

    the tears start falling the tears are the
    suffering departing from the body
    the body departing from the suffering
    and we depart from each other although

    we have lived with each other in brotherhood
    for a long time beginning with some
    fortunate chance… the body returns to
    the great motherland while suffering

    disappears into the skies and then suffering
    is no more bodies are no more in the
    lonely journey elsewhere. Alas, let’s
    rest, o my beloved brother of old, rest

    you now, listen to the earth and the skies
    disappearing with the melodies of
    a sunsetting afternoon.

    March 7, 2008

    LẠI NỖI BUỒN

    Nỗi buồn lan man gối
    đầu trên con sóng xanh
    lao xao lao xao theo
    gió nơi bãi sông và

    nỗi buồn không còn như
    thời quá khứ đứng bên
    đường vẫy tay chào ai
    đó mà đang pha vào

    màu phai nắng làm thành
    buổi chiều trên đôi mắt
    của cô gái và cô
    gái thì đang bâng khuâng

    về mối tình đã chớp
    mắt xa xa đã xa
    nỗi buồn như mây bay
    bay và cô gái dĩ

    nhiên cũng bay bay theo
    nỗi buồn vì nỗi buồn
    chẳng phải là mối tình
    khác mang tên nỗi buồn

    sao và hỡi những cặp
    tình nhân yêu nhau hạnh
    phúc hay tơ sầu chỉ
    là những dấu sương đời

    mang tên khác nhau đó
    thôi và cô gái và
    nỗi buồn và những cặp
    tình nhân yêu nhau ơi!


    Lê Hưng Tiến

    HUẾ KHÔI NGUYÊN

    mới hôm tê chiếc lá chiều chơi
    vơi bóng thiên di chết một cành
    tím Huế nơi tôi tìm được nửa
    bên nớ Đồi Thiên An … mới hôm

    tê ngọn đuốc thắp suốt cung đàn
    với tiếng mõ Nam ai cám cảnh
    phù du kinh thiêng niệm réo rắt
    tầng xa thẳm bên chùa Thiên Mụ …

    mới hôm tê thềm trăng rụng đầy
    lá thu đêm Vỹ Dạ dập dìu
    bến tự tình cùng mấy dã khách
    ri đắm mình tun hút Đập Đá

    cũng rứa … nếu nước mắt là hạnh
    phúc tràn qua khe cửa Phu Văn
    Lâu hãy rũ màu sông Hương huyền
    diệu để ngóng Thành cổ trầm mặc

    giữa mùa hoa đăng và chân dung
    em hôm chừ cũng rứa … có lần
    cơn mưa tình đổ xuống thật bưa
    anh sinh viên ni kể chi mô

    những dòng sông bất hạnh và cô
    tê nghe răng mà cả vào sâu
    thẳm mặc cho Tịnh Tâm rũ sạch
    bóng hồ sen tề! ơi những con

    phố quen mùi chân đất ta bỏ
    cuộc đời men theo đường cỏ để
    tháng năm ghi dấu một kẻ đi rong
    như Thành Huế vẫn nét khôi

    nguyên chào mỗi thần hôn thần hồn …


    Nguyên Quân

    ĐƠN PHƯƠNG

    Khi em bắt đầu cảm
    Nhận được anh đang ở
    Bên em cùng lúc trái
    Tim anh ngân rung hạnh
    Phúc chẳng giản đơn giữa
    Một khoảng không gian xa
    Cách vời vợi là hai
    Người đang phải ở tận
    Hai nơi dù chỉ có
    Thánh thần mới đơn phương
    Lặng lẽ yêu một người
    Biết không thể được gần
    Gũi cũng chẳng thể vượt
    Qua quy luật khoảng không
    Gian chật chội của bao
    Điều hệ lụy anh cũng
    Chỉ là một cái xác
    Phàm luôn ứa tràn lục
    Dục nhưng biết nhón gót
    Cao hơn dấu chân mình.


    Khúc Minh

    TÔI CƯỚI VỢ TRẺ

    Tôi về Việt nam cưới vợ trẻ vợ
    tôi tuổi thật là mười sáu ba má
    nàng phải chạy giấy tờ tăng hai tuổi
    cho nàng đủ tuổi làm giấy hôn thú

    với tôi tôi hớn hở mừng thầm mình
    lấy được vợ quá trẻ chắc nàng phải
    còn trinh trắng sau này qua mỹ nếu
    nàng muốn bỏ tôi phải ở với tôi

    tối thiểu là năm năm nếu không nàng
    sẽ bị trục xuất về Việt nam mỗi
    chu kỳ nănm năm rưỡi tôi lại về
    Việt nam cưới vợ trẻ một lần cưới

    vợ trẻ mãi cho đến khi ngày anh
    sáu mươi em cũng vừa đôi mươi có
    sao đâu trong đêm tân hôn trước giờ
    động phòng tôi nói với vợ tôi anh

    vừa thuê cuộn phim ngoại có chuyển âm
    lời việt anh bỏ vô máy chiếu anh
    em mình xem áp dụng cho đúng bài
    bản đem lại hạnh phúc em nhé vợ

    tôi bảo ba cái quỷ đó em xem
    hết cả rồi mấy người ấy đóng dở
    ẹc em sẽ chỉ cho anh nhiều kiểu
    bảo đảm phê ngút trời xanh mà các

    hãng làm phim sex chưa biết đâu tôi
    nghĩ mình gặp thần đồng tuổi trẻ tài
    cao rồi thật vậy sau đó nàng chỉ
    cho tôi thực hành với nàng các tuyệt

    chiêu mà nhiều năm luyện phim sex ở
    mỹ tôi chưa hề biết tôi cảm thấy
    phê ngút tận mây xanh như đang ở
    trong cõi ảo tôi đến được tầng trệt

    của thiên đường dần dần tôi bị kích
    ngất và mất hết cảm giác khi tôi
    tỉnh lại tôi đang nằm trong phòng cấp
    cứu của bệnh viện chợ rẫy Sài gòn.


    Nguyễn Tuyết Trinh

    NHỮNG GIẤC MƠ BÊN TRỜI

    Giấc mơ đến cùng tôi ẩn náu,
    luồn lách giữa linh hồn háu đói,
    ham hố tiếp tục đi xa hơn,
    dù đi tận nơi đâu bên ngoài

    trời rộng, sang tây sang đông, tới
    nam và bắc, bước qua triệu triệu
    năm huyền ảo, mê ảo cuộc đời.
    Những giấc mơ tìm cách vượt thời

    gian, bổ sung lên tất cả chân
    lý có vết rạn bị đời khước
    từ, triển khai hy vọng hun hút
    thẩm sâu, hoàn thiện những hạnh phúc

    lẩn khuất, hiện thân phối hợp và
    tan rã. Những giấc mơ tìm cách
    đi tới bên kia thế hệ vô
    tận, giải phóng những giấc mơ hoang

    tưởng dự trữ từ lâu câm lặng,
    han rỉ cùng từng ký ức. Chúng
    ta biết gì về những giấc mơ
    ở bên kia để có thể xê

    dịch chúng với sự bất lực của
    đôi bàn tay, để tiếp tục theo
    dấu, lọt vào những giấc mơ còn
    cư ngụ trong bóng tối, không ngừng

    lấp lánh, phản quang sương mù trên
    không, có màn che bất tận, để
    mơ cho những giấc mơ không có
    chỗ trong ánh sáng của thực tại,

    mãi mãi, bao la như sáng tạo.


    Thiện Hiếu 

    THẤY

    Tôi như một ngôi sao đã tắt hằng
    triệu năm trước đến bây giờ còn muốn
    thấy mặt trời… dù mây che hay đêm
    tối để lúc ta yêu nhau có hoa

    nở bên tường… có chiếc lá non rung
    rinh hạnh phúc. Tôi như ngôi sao đã
    tắt hàng triệu triệu năm đến bây giờ
    và mai sau còn mong thấy được mặt

    người dù cho bão tố phong ba hay
    chiến tranh cốt nhục có xảy ra lần
    nữa… lần nữa. Tôi như ngôi sao đã
    tắt hàng triệu triệu triệu năm đến bây

    giờ cũng tắt luôn nguồn ánh sáng thừa
    nếu không được nhìn thấy mặt người… mặt
    con người…

    Sàigòn 18-9-03

    TÂN HÌNH THỨC, MỘT ÐÔI ÐIỀU

    (Trích Tham Luận “Thơ Tân Hình Thức Việt Tiếp Nhận Và Sáng Tạo”. Huế. 2014)

    Mười lăm năm trước gặp nhau rồi…

    (Thơ Vũ Hoàng Chương)



    Những bài thơ Tân Hình Thức (THT) được các bạn thơ làm trong suốt mười lăm năm qua đã để lại cho chúng ta một di sản đáng kể, hay có và dở có. Nhìn lại dấu mốc những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, những yếu tố thuộc về kinh điển của Thơ THT đã được nhà thơ Khế Iêm phác họa, định hình và khai triển cùng với đóng góp của nhiều nhà thơ khác. Cũng thế, những bài thơ ông làm trong khoảng thời gian đó đã mang sức thuyết phục mạnh mẽ (Con Mèo Đen, Cái Hộp, Ảo Ảnh, Người Đàn Bà, Bậc Thang, Tân Hình Thức Và Câu Chuyện Kể, …) khiến cho một số đông các bạn thơ trong đó có tôi cùng hăng hái nhập cuộc. Cuộc chơi ở trong giai đoạn khởi đầu này vô cùng hào hứng. Các bạn thơ đối diện với nàng thơ mà dung nhan đang còn phong kín, đã say sưa bước vào một cuộc phiêu lưu mới. Thời gian ấy, bỏ lại sau lưng dòng sông vàng in bóng đền đài của những mùa thơ cũ, chúng tôi bước vào buổi ban mai của dòng suối tinh khôi chảy róc rách qua kẽ chân nõn nà của nàng thơ THT. Đến nay, thời gian đã đủ dài để cho tôi nhìn lại. Nhìn lại sâu hơn, bằng với lòng lắng hơn, những nét dở và hay đã làm tuyển thơ nên da thịt và tâm hồn của nàng thơ THT.

    Tôi còn nhớ có một lần anh Khế Iêm chở tôi đi loanh quanh bằng chiếc xe cũ rích của anh, và mở cho tôi và anh cùng thưởng thức một bài ca cải lương vọng cổ được phát ra từ chiếc máy ọp ẹp gắn trong xe. Chất dân gian đời thường của câu chuyện lòng, qua lời vọng cổ kể lể, được lặp đi lặp lại một cách ai oán, hòa tan vào không gian ngổn ngang sách báo và chai lọ trong nội thất của chiếc xe. Hôm đó tôi được anh nói cho nghe nhận xét của anh về những điểm tương đồng độc đáo giữa bộ môn cải lương và thơ THT. Khi chia tay anh còn lưu luyến tặng cho tôi hai cuốn băng vọng cổ mang về để nghe chơi. Riêng tôi, bằng một sự ngẫu nhiên có ý thức, tôi nhận ra rằng việc thưởng thức một bài thơ THT hay và có hiệu quả, rất gần với với việc thưởng thức lời ru của một bà mẹ ru con. Lời ru có thể là một bài ca dao, một bài vè, một bài vọng cổ, hay là một bài thơ. Nhưng dù là bài gì đi nữa thì những lời ru luôn luôn chuyên chở trong nó cả một bầu tâm sự. Mà tâm sự của lời ru thường chính là tự sự, là chuyện. Nhưng ta biết tâm sự là một chủ thể có ý thức, trong khi cả bà mẹ và đứa con đều đang đi dần, đi dần vào trạng thái đê mê của lời ru bằng vô thức. Khi lời ru càng lúc càng ê a, càng lúc càng lặp đi lặp lại, thì lời ru cuối cùng chỉ còn là viên thuốc ngủ cho đứa con và là viên thuốc an thần cho bà mẹ. Tôi không biết bà mẹ của những dân tộc khác có ru con nhiều như những bà mẹ Việt Nam hay không. Nhưng cả bà mẹ và đứa con đều được hưởng cái hạnh phúc vô tư, hồn nhiên và chan hòa, cái hạnh phúc ê a, cái hạnh phúc lặp đi lặp lại và cộng hửng theo lời ru chất chứa đầy tâm sự, đầy tự sự, và đầy tính truyện.

    Vậy chúng ta thử so sánh xem thơ THT có cùng một cấu tạo và tác dụng như lời mẹ ru con chăng. Yếu tố ngôn ngữ đời thường và yếu tố tính truyện vốn bàng bạc trong mọi lời ru con qua mọi thời đại và đó là nhân tố tất yếu khiến cho lời ru ăn sâu vào văn hóa dân gian. Vậy đối với thơ THT, ngôn ngữ đời thường và tính truyện phải được thể hiện bằng cách nào và bằng một ý thức ra sao, để có thể đạt được cùng một hiệu quả như lời mẹ ru con. Câu hỏi trở thành một thách thức cho tôi và các bạn thơ. Khi mà trong lời ru, ngôn ngữ đời thường và tính truyện, xuyên qua vô thức, chỉ còn đọng lại nơi khóe môi cười của đứa bé đang thiếp đi cùng cánh diều viễn du trên vùng trời xanh thẳm. Cũng thế, cái đoạn đường đi từ ý thức đến vô thức đó chính là chuyến viễn du của một nhà thơ trong cuộc phiêu lưu đầy thách thức, chinh phục nàng thơ đang soi bóng dung nhan bình minh của mình bên dòng suối THT.

    Sang đến yếu tố vắt dòng, có thể nhận thấy nơi nhịp võng đong đưa, hay là nhịp vỗ về của bàn tay bà mẹ vỗ lên lưng đứa bé. Khi đó hơi thở bị ngắt ra làm nhiều quãng khiến cho lời ru bị vắt dòng một cách vô thức. Và chính cái yếu tố đong đưa, vỗ về đó đã khiến cho lờ ru bị vắt dòng càng lúc càng trở nên thiết tha mời gọi. Cùng một dòng chảy đó, lời ru được cà kê dê ngỗng rồi lập đi lập lại, nỉ non, mang cùng một yếu tố của thơ THT. Và câu hỏi được đặt ra vẫn là, yếu tố tuyển thơ vắt dòng và yếu tố lập lại, vốn có một hiệu quả tất yếu được thể hiện một cách vô thức trong lời mẹ ru con, phải được thể hiện như thế nào để cho một bài thơ THT có thể chấp cánh bay lên như lời ru đê mê của mẹ. Bay lên. Bay lên. Chơi vơi một chút lấy đà thôi rồi bay vút lên đạt tới khoảng trời xanh cao thẳm, đó có phải là một thách thức tuyệt vời cho các bạn thơ tài hoa của chúng ta chăng.

    Cũng cần góp ý thêm, đó là xuyên suốt bài thơ, cái phần tâm tư, ý tưởng, tức là cái tứ thơ phải làm chủ mọi câu và chữ. Bởi đó và qua đó phần kĩ thuật của thơ, vốn là con dao hai lưỡi, không làm hỏng bài thơ. Tính truyện chỉ là tính truyện không phải truyện, cần hàm chứa tránh lan man. Tính đời thường phải thường tránh cưỡng ép, cường điệu. Tính vắt dòng như hơi thở nên uyển chuyển tránh lạm dụng. Tính lập lại phải điều tiết cho thành nhạc tính, hòa tan vào mọi yếu tố khác để đẩy cái hồn thơ bay vút lên cao. Một điều đáng lưu ý đó là tất cả các tính cách ấy không nhất thiết phải đồng loạt thể hiện trong cùng một bài thơ. Chúng ta biết rằng tất cả đều chỉ là phương tiện, và một bài thơ hay vốn trước tiên là một bài thơ chứ không phải là một bài thơ đúng.

    Các bạn thơ thân mến, trên đây chỉ là đôi điều chia sẻ vụn vặt. Mong các bạn góp ý thêm để thơ THT vẫn là một sân chơi trong rất nhiều sân chơi của chúng ta. Cùng chơi cùng làm cùng cộng hưởng. Sự cộng hưởng ngay thật cho chúng ta cơ hội để bổ khuyết, để hoàn thiện và ngay cả để bỏ đi làm lại từ đầu.

    Trầm Phục Khắc - 2014


    Ý TƯỞNG THƠ TÂN HÌNH THỨC (THƠ MỞ RỘNG)

    Phong trào Thơ Tân Hình Thức là phong trào nóng bỏng và lớn nhất đã tác động đến thơ ca quốc tế trong nửa thế kỷ.

    Thơ THT tìm cách đưa những thú vui của vần điệu, nhịp điệu, âm nhạc và kể chuyện trở lại với thơ ca hiện đại. Các nhà thơ trong phong trào cảm thấy thơ ca hàn lâm hiện đại đã trở nên quá khép kín, tự mãn và ham muốn nhàm chán để có nhiều giá trị đối với độc giả nói chung. Theo một trong những người sáng lập, Frederick Feirstein, phong trào này được hình thành để giúp khắc phục những hạn chế của thơ ca như đã được thực hành trong suốt một phần tư thế kỷ qua. Từ năm 1960 đến năm 1990, các thể loại thơ được xuất bản chính là thơ tự do ngắn, trữ tình tự truyện ít nói và thơ chính thức hàn lâm tôn vinh không có nhiều đam mê.

    Thơ ca thời thượng trở nên cũ kỹ với ngôn ngữ nhạt nhẽo, tầm thường, không có nhạc tính, đề cập đến một chủ đề không có ích gì cho người đọc. Nó không làm hài lòng cả đôi tai lẫn tâm hồn.

    • Mục tiêu của các nhà thơ tham gia phong trào mở rộng là:

    * nói những điều có ý nghĩa và đầy nhiệt huyết về thế giới rộng lớn bên ngoài bản thân họ

    * sử dụng mọi nguồn lực của nghệ thuật – bao gồm nhịp điệu, vần điệu và cấu trúc kịch tính và tự sự

    * thêm việc sử dụng khoa học và công nghệ dễ dàng vào hình ảnh và chủ đề của họ.

    * phấn đấu cho một ngôn ngữ thơ ca bao gồm cả lời nói thông tục của người Mỹ

    * tiếp tục sử dụng thơ tự do và thơ không vần cùng với các hình thức truyền thống khác như thơ sonnet, thơ limerick, thơ tứ tuyệt, thơ pantoum, v.v.

    Các nhà thơ THT rất lo lắng về việc mất đi lượng độc giả khiến thơ ca ở Mỹ trở thành một hình thức nghệ thuật nhỏ. Phong trào hiện đang cố gắng tìm cách tiếp cận lượng độc giả lớn bằng cách sử dụng các hình thức tự sự dài hơn có thể đọc dễ dàng như tiểu thuyết, bằng cách biểu diễn kịch các bài thơ của mình trong bối cảnh sân khấu và bằng cách hợp tác với các nhạc sĩ nhạc rock và nhạc cổ điển. Những nhà thơ này muốn trình diễn thơ khi họ đọc thơ.

    • Trích dẫn Andrea Hollander Budy, nhà thơ:

    “chúng ta thèm thơ giống như chúng ta thèm âm nhạc. Nếu chúng ta là con người, thơ là thứ chúng ta phải có. Nếu chúng ta không có thơ hay, chúng ta sẽ thuộc lòng những giai điệu truyền hình và lời bài hát tệ hại. Nhưng nếu chúng ta được cho thơ hay, chúng ta sẽ giữ lại và muốn nhiều hơn nữa.”

    • Trích dẫn Dana Gioia, tác giả của Can Poetry Matter:

    “nhịp điệu là phương tiện tạo nên ngôn ngữ thơ. Nhịp điệu hiện là cách các nhà thơ trò chuyện với độc giả của họ, một cách để lắng nghe các từ chuyển động cùng nhau. Một bài thơ chính thức được thực hiện tốt mang lại niềm vui mà người viết và người đọc có thể chia sẻ trên các điều khoản bình đẳng. Hình thức cung cấp thứ mà chúng ta không thể có được ở bất kỳ nơi nào khác”

    • Trích dẫn Annie Finch, giáo sư và nhà thơ:

    “học cách viết theo hình thức thông thường sẽ rèn luyện đôi tai để nghe được âm nhạc của ngôn ngữ, đồng thời cũng cung cấp nền tảng lâu dài để viết thơ hay ở mọi thể loại. Thơ chính thức phải nghe tự nhiên – không gượng ép, không hùng biện vụng về. Có rất ít điều gây khó chịu hơn một bài thơ bắt đầu bằng một nhịp điệu hoặc một vần điệu rồi bỏ dở, thậm chí chỉ một hoặc hai dòng. Tốt hơn là không nên sử dụng bất kỳ hình thức thông thường nào thay vì quyết định giữa chừng rằng nó quá khó hoặc cản trở. Khi bạn đã thành thạo hình thức.”

    Finch nói rằng, bài thơ của bạn phải hấp dẫn người khác và thay đổi cuộc sống của họ cũng như của chính bạn mạnh mẽ hơn bạn từng mong đợi.

    • Trích dẫn Robert McDowell, Nhà sáng lập Story Line Press

    “bất kỳ ai nghiêm túc với thơ ca đều phải học tất cả những gì họ có thể về các truyền thống thơ ca khác nhau. Nền giáo dục đó sẽ bao gồm nghiên cứu toàn diện về các hình thức vần điệu trong số những thứ khác”

    Ông cũng khuyên nên đọc mọi lúc (tất cả các chủ đề) bắt chước các nhà thơ mà chúng ta đọc, ghi chép lại các ý tưởng và quá trình viết, tưởng tượng ra một khán giả đang lắng nghe bạn, viết bằng giọng nói khác với giọng của bạn, cảnh giác khi sử dụng đại từ ngôi thứ nhất rất thường xuyên và bỏ qua các khía cạnh bình thường trong cuộc sống của bạn, tập trung vào chủ đề có ý nghĩa.

    Dù là tự do hay truyền thống, thơ ca cũng phải làm vui lòng người khác cũng như khơi dậy cảm xúc. Thơ ca hay nhất là thơ giải trí vì nó bắt nguồn từ truyền thống kể chuyện và sáng tác nhạc của con người và hữu ích vì nó làm xáo trộn cuộc sống của chúng ta và củng cố tính nhân văn của chúng ta.

    (From Writer’s Digest tháng 1 năm 1994 – Trích đoạn từ bài viết Expansive Ideas của Michael J Bugeja.)

    Google dịch/Thạch Tốt review

    The Expansive Poetry Movement is the hottest and biggest movement to hit international poetry in half a century.

    The Expansive Poetry seeks to return the pleasures of rhyme,meter,music and storytelling to modern poetry. Poets in the movement feel modern academic poetry has become too withdrawn selfindulgent and lust plain boring to have much value for the general reader. The movement according to one of its founders, Frederick Feirstein was formed to help overcome the limitations of poetry as it has been practiced over the past quarter century. Between the 1960 and 1990 the main types of published poems were the short free verse autobiographical lyric that said little and the celebral academic formal poem that had little passion.

    Fashionable poetry become stale with flat ,unremarkable, unmusical language, addressing a subject matter of no use to its reader. It pleased neither ear nor soul.

    • The goals of the poets who join the expansive movement are:

    * to say significant and passionate things about the larger world outside themselves

    * to use all the resources of the art – including meter, rhyme and dramatic and narrative structures

    * to add easy use of science and technology to their imagery ang subject matter.

    * to strive for a poetic language that embraces colloqiual American speech

    * to continue to use free verse and blank verse olong with othewr traditional forms such as sonnets, limericks, quatrains, pantoums, and so forth.

    Expensive poets are very concerned about a loss of audience which relegates poetry in America to a minor art form. The movement currently is trying to find a way to reach a large audience by using longer narrative forms that can be read as easily as novels, by dramatic performances of its poems in a theater setting and by collaborating with musicians both rock and classical. These poets want to perform poetry when they read it.

    To quote Andrea Hollander Budy, poet, “we crave poetry the way we crave music. If we are human ,poetry is someting we must have. If we are deprived of good poetry ,we will memorize television jingles and lousy song lyrics. But if we are given good poetry, we keep that instead and will want more.

    • To quote Dana Gioia author of Can Poetry Matter:

    “meter is a mean of making the language of poems. Meter is now poets converse with their readers, a way of hearing words move together. A well-executed formal poem provides a pleasure that the writer and reader can share on equal terms . Form provides something we can’t get anywhere else “

    • To quote Annie Finch ,professor and poet:

    “learning to write in a regular form will train the ear to hear the music of language, while also providing a permanent foundation for writing good poetry of all types. Formal poems should sound natural-no forcing, no awkward rhetoric. Few things are more disturbing than a poem that starts out with one meter or rhyme scheme and then abandons it, even for a line or two. It is better not to use a reguler form at all than to decide halfway through that is’s too difficult or got in the way. Once you’ve masterd form.”

    Finch says, your poem should appeal to other stick in their minds and change their lives and your own more powerfully than you have ever expected.

    • To quote Robert McDowell, Founder of Story Line Press:

    ” anyone serious about poetry must learn all they can about the various poetic traditions. That education will include a comprehensive study of metrical forms among other things”

    He also recommends reading all the time (all sujects) imitating the poets we read. ,keeping notebooks of ideas and of the process of writing, imagining an audience listening to you.,writing in a voice other than your own, being wary of using the first-person pronoun very often and ignoring the ordinary aspects of your life focusing on subject matter of substance.

    Whether free form or formal, poems should please the car as well as arouse the emotions. The best poetry is entertaining in that it is rooted in the human tradition of telling stories and making music and useful in that it disturbs our lives and reinforces our humanness.”


    Quan niệm nghệ thuật và “triết lý sáng tác” của Edgar Allan Poe

    83 . HOÀNG KIM OANH . Quan niệm nghệ thuật và “triết lý sáng tác” của Edgar Allan Poe * Hoàng Kim Oanh

    BÀI VIẾT NHÂN KỶ NIỆM  EDGAR ALLAN POE NHÂN SINH NHẬT 216

    TÓM TẮT

     Từ Baudelaire, Mallarmé, Valléry…, quan niệm thẩm mỹ về cái Đẹp và triết lý sáng tác thơ, truyện của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe – nhà thơ, lý thuyết gia của quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, ông tổ của truyện trinh thám, kinh dị và phiêu lưu huyễn tưởng thế giới – đã “nhập tịch” vào quan niệm nghệ thuật của nhiều nhà thơ, nhà văn lãng mạn Việt Nam từ những năm đầu thế kỉ XX. Đó là quan niệm nghệ thuật về Cái Đẹp thuần khiết, độc lập với Đạo đức và Chính trị, và “Nỗi buồn là địa hạt chính đáng nhất của thơ ca”. Đặc biệt hơn, Poe còn đề cao lý trí, cho rằng “nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ”. “Triết lý sáng tác” kì lạ của ông tuy ban đầu bị nhiều cây bút lên án, nhưng đến nay, đã trở thành những công thức sáng tác mẫu mực không chỉ cho văn học Mỹ mà còn cả văn học thế giới, trong đó có văn học Việt Nam.  

    Edgar Allan Poe (19.1.1809-7.10.1849)

    1.     Mở đầu

     Giới nghiên cứu lâu nay vẫn cho Edgar Poe là một nhà thơ chủ trương “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, là “lý thuyết gia” đầu tiên của thi phái này. Có lẽ bởi sáng tác của ông không quan tâm đến những vấn đề chính trị, xã hội, mà chỉ hướng về nội tâm con người. Và có thể bởi Poe quá chú trọng đến hình thức nghệ thuật sáng tác. Thực ra vấn đề này không phải không có những tranh cãi, phủ định, xuất phát từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Có người cho rằng sáng tác của ông có ý đồ kỹ thuật quá đậm, nhà thơ chỉ là một “thợ văn” hơn là một thiên tài nghệ thuật đích thực. Thậm chí còn đánh giá tác phẩm của ông“chỉ là những mảnh ráp nối từ cuộc đời ông”, “chỉ là sản phẩm của một kẻ loạn thần kinh, đầu óc bệnh hoạn, thiếu thăng bằng”. Ngay cả JamesRussell Lowell, mặc dù là một nhà văn thiên tài cũng cho rằng “hai phần năm trong số những tác phẩm của Poe chỉ là những chuyện tầm phào” (Lê Đình Cúc, 2001, 154). Thế nhưng, đến nay, đã có nhiều bài báo, công trình đặt lại vấn đề này, và đề cao “nhà thơ điên” Edgar Allan Poe là “thiên tài bí ẩn, kì lạ nhất” của văn học Mỹ và thế giới, người để lại nhiều ảnh hưởng nhất ở các nền văn học Đông – Tây thế kỉ XIX đến nay. Bài viết này tập trung tìm hiểu quan niệm thẩm mỹ độc đáo của Poe về Cái Đẹp và những cách tân độc đáo của ông trong việc sáng tạo ra “triết lý” sáng tác thơ, thiết lập các nguyên tắc thẩm mỹ trong truyện ngắn, để lại nhiều dấu ấn trong nghệ thuật sáng tác văn chương Việt Nam.

    2. Quan niệm nghệ thuật về Cái Đẹp của Edgar Allan Poe

           2.1. Cái Đẹp thuần khiết và Tự nó

       “Trước Poe chưa có nền văn học Hoa Kỳ” (J. Cabau, 2009, 35), thế hệ của Poe chính là người khai sinh nó. Edgar Allan Poe được coi là người mở đường chotrường phái thơ tượng trưng, là “lý thuyết gia” đầu tiên của quan điểm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” với quan niệm độc đáo, khác lạ về sáng tác so với những tác gia cùng thời. Trong các tiểu luận phê bình tiêu biểu của Poe, nhiều lần ông khẳng định bản chất của thơ là phải Đẹp. Dù muốn tả một cảm xúc, một tâm trạng hay một chân lý thì những thứ đó cũng phải được bao phủ bởi Cái Đẹp, nếu không thì không thể thành thơ. Theo Poe, Cái Đẹp thuần khiết trong sáng vốn không ràng buộc bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào, hoàn toàn nằm trong tưởng tượng của nhà thơ. Nếu tách tưởng tượng ra khỏi vạn vật thì cũng có nghĩa là đi ngược với quy luật của tự nhiên, làm cho hiện thực cuộc sống trở nên nghèo nàn trần trụi đi, và, sẽ không còn Cái Đẹp (Sonnet –To Science). Quan niệm này rất được các nhà tượng trưng Pháp đề cao. Với Poe, “Cái Đẹp là lĩnh vực chính đáng duy nhất của thi ca. Đó là một niềm vui thích rất mãnh liệt, rất cao cả, và cũng rất thuần khiết mà con người chỉ có thể tìm thấy trong sự chiêm ngưỡng Cái Đẹp”.[1] (Baym Nina, 1989,1322). Có lẽ Poe cũng là người đầu tiên sớm phân biệt rõ Cái Đẹp với Chân lý và Sự đam mê: “Trong thực tế, Chân lý đòi hỏi sự chính xác còn Đam mê thường là thô thiển (những người thực sự đam mê sẽ thông cảm với tôi), mà cả hai điều này (sự chính xác và thô thiển) lại hoàn toàn đối lập với cái Đẹp”[2]. Và thơ của Poe đã thuần túy đi vào Cái Đẹp bởi cái đẹp của chính nó, chính mục đích của Thi ca.

     Trong tiểu luận khá nổi tiếng khác, Nguyên lý thơ (The Poetic Principle) Poe đã định nghĩa bổ sung: “Thơ ca như là sự sáng tạo nhịp điệu của cái Đẹp. Trọng tài duy nhất của nó là Thẩm mỹ. Với Trí tuệ hoặc Lương tâm, nó chỉ có mối tương quan phụ. Trừ phi ngẫu nhiên, nó không có mối liên hệ gì với Trách nhiệm hay Sự thật.” [3]. Poe cũng nhấn mạnh: “bản thân của nguyên lý thơ – nói một cách đơn giản và chặt chẽ – là sự Khát khao của Con người về cái Đẹp cao cả, sự biểu lộ của nguyên lý này luôn luôn căn cứ vào việc nâng cao sự phấn chấn của tâm hồn, hoàn toàn độc lập với Cảm xúc là sự say sưa của Trái tim, hoặc với Sự thật là sự thỏa mãn của Lý trí”[4].

      2.2. Nỗi buồn là giọng điệu phù hợp nhất của thơ ca

    Mặt thứ hai trong quan niệm về Cái Đẹp của Poe cũng khác hẳn những quan niệm quen thuộc thông thường khi ông cho rằng: “Cái Đẹp ở bất cứ kiểu loại nào, khi đạt tới cực độ thì bao giờ cũng làm người ta phải nhỏ lệ, do đó giọng thơ phải buồn. Vì thế, u buồn chính là giọng điệu phù hợp nhất của thi ca.”[5] (Baym Nina, 1989,tr.1323). Và ông chọn: “Cái chết của người phụ nữ đẹp (trẻ) là đề tài thơ mộng nhất” (The Philosophy of Composition). Hình tượng trung tâm trong nhiều tác phẩm của ông đều có nhân vật nữ chính hoặc điên loạn chết, hoặc ốm yếu và tàn tạ đến chết bởi một căn bệnh quái ác: lao phổi. (Ligeia, Moreilla, Berenice, Sự sụp đổ của ngôi nhà dòng họ Usher, Bức chân dung hình ô-van…). Chính vì luôn tự dày vò trong suy nghĩ đau đớn về cái chết, nhiều bài thơ của Poe mang trạng thái tuyệt vọng – một thứ khoái cảm trong sự tự hành hạ dày vò chính mình, một kiểu bệnh tâm lý (sadism). Bài thơ Con quạ (The Raven) với điệp khúc “Nevermore- không bao giờ nữa” vì vậy đã trở thành một kiệt tác làm nên tên tuổi của Poe và quan niệm về Cái Đẹp của ông: Cái Đẹp là cái u sầu. Nỗi – đau – mất – người – phụ – nữ – yêu – dấu đã trở thành kiểu đề tài “độc quyền” của Edgar Poe. Cũng như nói đến Edgar Poe là người ta nghĩ đến hình ảnh con quạ và nỗi ám ảnh: “Và con quạ vẫn không bay đi, còn đậu đó (…), ánh sáng đèn giội lên nó, rọi bóng nó trên đất, và tâm hồn tôi không bao giờ thoát lên khỏi cái bóng chập chờn trên đất ấy, không bao giờ nữa!” (Nguyễn Hiến Lê, 1957, 29).

    Song, cũng cần phân biệt đề tài Cái chết của Poe không nhằm miêu tả bản thân cái chết mà là quá trình con người nhận thức về cái chết và kiểu chết. Suy nghĩ và phản ứng của con người ra sao trước cái chết. Đối mặt hay sợ hãi, chạy trốn? Poe thường miêu tả thật chi tiết những cảm nhận của con người khi đang dần chết đi và những nỗ lực vùng vẫy của họ để được trở về dương thế. Theo Poe, nhận thức quy luật về cái chết không phải là sự yếu đuối mà chính qua đối mặt với cái chết, sức mạnh con người lại được khẳng định. Trong nhiều truyện huyễn tưởng kì ảo của Poe, nhân vật của ông đều trở về từ cái chết. “Không có sự đổi mới nào tránh được cái chết. Con người, như một cuộc chạy đua, không nên mất hết hy vọng, anh ta phải được sống lần nữa.”[6] (E. Poe, 1984, 597). Gia tài nghệ thuật của Poe, ngoài những thông điệp về Cái chết, Tình yêu và Nỗi buồn còn mang nặng những trăn trở giằng xé phản thân của con người khi tự đối bóng để đi tìm cái bản ngã đích thực của mình (William Wilson, Con người của đám đông, Trái tim thú tội, Con mèo đen…).

      2.3. Nghệ thuật vị linh hồn con người

    Có thể nói một cách khách quan hơn, theo cách dùng từ của Eric Calson, tuy đề cao cái Đẹp, cho trọng tài duy nhất của thơ ca là Thẩm mỹ và đối lập nó với Đạo Đức, Lương tâm…, Poe không hoàn toàn chủ trương “Nghệ thuật vị nghệ thuật” (Art for Art’s Sake) mà đúng hơn là đi theo quan điểm “Nghệ thuật vị linh hồn con người “(Art for the Soul ‘s Sake) (Eric Calson, 1973, 3). Có lẽ điều này mới thật phù hợp với quan điểm nghệ thuật của Edgar Poe. Nghệ thuật trước hết vì chính bản thân việc thoả mãn những cảm xúc thuần túy của con người trước Cái Đẹp, đồng thời cũng là sự khám phá thế giới tâm hồn đa dạng phức tạp của con người. Đó cũng là con đường tuy không trực tiếp nhưng cũng phục vụ cuộc sống, phục vụ nhân sinh chăng? Hiểu được, hiểu đúng về con người phải chăng cũng chính là mục đích mà thơ ca nói riêng và văn chương nói chung luôn hướng tới để làm cho cuộc sống này, thế giới này ngày một tốt đẹp hơn. Chính nhà văn Mỹ Emerson, người hoàn toàn không theo quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” cũng thấy rằng: “bao giờ cái đẹp cũng phục vụ cho tư tưởng và sự nâng cao tinh thần” (Nguyễn Đức Đàn, 1997, 126).

    Những quan điểm thẩm mỹ tưởng như kì lạ này của Poe về Cái Đẹp, Cái Chết và Kiểu trở về từ cái chết, cũng như sự nhận thức về cái chết đã được tiếp nhận và tiếp biến trong văn chương Việt Nam. Thơ lãng mạn Việt Nam từ những năm 30 cũng đầy ám ảnh về cái chết, có lẽ không chỉ đơn thuần là cái nhìn bi quan yếu đuối mà còn ẩn một thông điệp của sự phản kháng, phủ định thực tại đen tối và khẳng định sức mạnh con người? Còn “cái chết của người con gái đẹp – người yêu dấu” của Poe, cho đến nay, đã trở thành một trong những chủ đề được nhiều cây bút tài hoa ưa thích và khai thác thành công nhất. Quan niệm nghệ thuật của Edgar Poe đã được Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê và một số nhà văn, nhà thơ Mới khác tiếp nhận trong buổi giao thời với tâm thế khao khát cách tân văn học nước nhà theo con đường hiện đại hoá phương Tây. Chính thức hoặc không chính thức, các nhà thơ Mới này đều có những tuyên ngôn độc đáo về thơ và vai trò của người nghệ sĩ. Có lẽ, với họ, Cái Đẹp tuyệt đối, cái Đẹp thuần khiết, không chịu ảnh hưởng của đạo đức, luân lý ràng buộc, khát khao giải phóng cái Tôi ở mọi cung bậc cũng chính là “khát vọng thành thực” phá vỡ xích xiềng lạc hậu sáo mòn của văn học ảnh hưởng văn hoá Hán ngàn năm trước, trong những năm đen tối ngột ngạt nô lệ của đất nước, tìm một hướng đi mới cho văn học dân tộc. Nghĩa là, ở một mặt nào đó, đã phục vụ nhân sinh?

    3. Quan điểm sáng tác: “Nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ”

                  Poe rất tôn thờ Nghệ thuật, coi đó là nữ hoàng cao cả nhất. Và nhà thơ, như một thiên mệnh, là người trung gian giữa ý tưởng của Thượng Đế và khát vọng của con người. Ông tự ví tâm hồn mình “như một dây đàn”, chỉ rung lên bởi cảm xúc mãnh liệt mà Nàng Nghệ thuật mang đến. Những giấc mơ xa xôi với những “Nàng Thơ”, “Nàng Tiên” – thường được Poe đề cao với một vẻ đẹp thiên thần, bất tử – như là một phương tiện, một phương thuốc nhiệm màu “Để giải thoát trái tim tôi, và những hy vọng sắp tàn”. Bởi vì hễ khi nào: “Còn tin vào những giấc mơ. Tôi còn bị quyến rũ bởi Nàng thơ.”(Gửi nàng Louise Olivia Hunter)[7] Mà như chúng ta biết, cuộc đời lẫn thơ của Poe luôn đầy những giấc mơ. Đó là chuỗi kiếm tìm trong vô vọng “thiên đường đã mất” (Paradise Lost), là sự trốn lánh “thực tại đau buồn đầy hỗn loạn và dục vọng đua chen”. Giấc mơ là một phần đời của Poe. Bởi, với nhà thơ bất hạnh này:

     “Tôi chỉ hạnh phúc trong giấc mơ.

      Tôi hạnh phúc.

      Và tôi yêu điều đó.[8]

      (Những giấc mơ)

               Tuy nhiên, cần hiểu rõ hơn những tuyên ngôn tưởng chừng như đầy mâu thuẫn của Poe. Có lẽ Poe là nhà văn đầu tiên có ý thức phân định rạch ròi: Bản chất của thơ ca là Cái Đẹp thuần khiết, còn quá trình sáng tạo ra bài thơ lại hoàn toàn là vấn đề của lý trí. Đề cao lý trí, “Etga Pô đã quan niệm sáng tác thơ ca không phải là một hoạt động thần bí, hoặc có tính may rủi ngẫu nhiên mà chịu sự chỉ đạo chặt chẽ của lý trí.” (Hà Minh Đức, 1997, 147). Trong tiểu luận Nguyên lý thơ (The Poetic Principle), Poe viết: “Chia thế giới trí óc thành ba phần khác biệt rõ ràng, chúng ta có Trí tuệ thuần tuý, Thẩm mỹ, và Ý thức Đạo đức. Tôi đặt Thẩm mỹ ở vị trí giữa, bởi nó chỉ có thể chiếm vị trí này trong trí óc.” (Baym Nina, 1989, 1334)[9] Từ những “tuyên ngôn” của Poe, Nguyễn Hiến Lê cũng rút ra kinh nghiệm sáng tác: “hứng thú “chỉ quan trọng có 5%, còn chín mươi lăm phần trăm nữa là công phu” (Nguyễn Hiến Lê, 1957, 38). Việc chọn bài thơ ‘Con quạ’ để giải thích quá trình sáng tác của Poe có lẽ cũng là việc làm độc nhất vô nhị thời bấy giờ. Poe đã chứng minh “không có một điểm nào trong bố cục của bài thơ có thể quy cho sự ngẫu nhiên hay trực giác, mà tác phẩm đã phát triển từng bước cho đến khi hoàn thành với kết quả chính xác và nghiêm ngặt của một bài toán”[10] (Baym Nina, 1989, 1321). Dù còn dè dặt, Hà Minh Đức cũng đánh giá trường hợp cá biệt của Poe mang ý nghĩa tích cực bởi thể hiện được “ý thức của nhà thơ chỉ đạo chặt chẽ quá trình sáng tác” và đã “nói lên được một cái gì chung cho hoạt động thơ ca.” (Hà Minh Đức, 1997,148). Nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ. Quan điểm sáng tác rất lạ, rất mới so với kinh nghiệm thẩm mỹ sẵn có từ trước này của Poe đã vượt ra khỏi tầm đón đợi của thời đại ông sống, từng khiến thời đại của ông lúng túng, chưa chấp nhận ngay được nên không ít nhà phê bình đã phản ứng, coi ông là ‘kẻ điên rồ”!

                Ở Việt Nam cũng không ngoại lệ, diễn trình tiếp nhận quan điểm này vẫn còn nhiều ý kiến đối thoại, tranh cãi, bất đồng. Ngay chính Nguyễn Hiến Lê, người dịch và phê bình đầu tiên tiểu luận này, tuy thán phục tài năng nhưng cũng không coi đó là mẫu mực cho sáng tác thơ ca vì theo ông: “phương pháp của Edgar Poe chỉ có thể dùng để sáng tác những tiểu phẩm khéo mà không hồn.” (Nguyễn Hiến Lê, 1957, 32). Ngược lại, nhà thơ Nguyên Sa thì đồng tình: “sáng tạo không phải lên đồng hay cầu cơ và nghệ sĩ ngồi đó như cái xác không hồn để cho ngọn gió từ phương xa, tinh thần từ thế giới khác nhập vào”, mà ý thức về nghệ thuật sáng tạo thể hiện qua sự trăn trở tìm tòi về kĩ thuật sáng tạo, bởi ý thức này “có mặt trước khi, trong khi và sau khi cấu tạo tác phẩm” (Nguyên Sa, 1967,120). Điều này cũng tương đồng với quan niệm quen thuộc của E. Poe về lối thơ duy lý, óc suy luận trong nhiều truyện ngắn của ông.

               Đến những năm đầu thế kỉ XXI, quan điểm sáng tác kì lạ của Poe lại được thế hệ những nhà văn mới khẳng định. Tiếp cận nhiều tác phẩm của Poe từ tiếng Nga, kinh nghiệm đọc E.A.Poe của nhà văn – nhà nghiên cứu- dịch giả Ngô Tự Lập lại đưa đến một sự đồng cảm sâu sắc với quan điểm khác thường của Edgar Poe. “Ngay từ trước khi viết văn, tôi vẫn nghĩ rằng viết văn là giải một loại bài toán”. Quan điểm “Nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ” của Edgar Poe đã trở thành lời động viên quý báu cho con đường nghệ thuật của Ngô Tự Lập. Đây là một sự tiếp nhận chủ động và rất ý thức, bởi với tác giả, ý tưởng của Poe đã giúp ông khẳng định chuẩn thẩm mỹ của mình, vì cho dù: “Poe có mô tả đúng những gì diễn ra trong quá trình sáng tác bài thơ nổi tiếng của ông hay không, nhưng có một điều chắc chắn: sự ra đời văn học hư cấu cũng đồng thời là sự lên ngôi của trí tuệ.” (Ngô Tự Lập, 2005, 32).

     4. “Triết lý sáng tác” trong truyện và thơ

     4.1. “Triết lý” về kĩ thuật xây dựng truyện

         Hầu hết truyện của Poe đều là thể loại truyện ngắn. E.A.Poe cũng chính là người khai sinh lý thuyết về truyện ngắn qua nhiều bài báo, phê bình tiểu luận củaông, và đã “mang lại cho nó một định nghĩa mà không ai vượt qua nổi” (Lê Huy Bắc, 2003). Trong Triết lý về sáng tác (Philosophy of Composition), kĩ thuật xây dựng cốt truyện được Poe nói rõ: “Mọi cốt truyện đúng như tên gọi là cốt truyện phải được xây dựng nhằm vào sự mở nút của nó trước khi ngòi bút động đến những vấn đề khác”. Và phải làm sao cho “những tình tiết và đặc biệt là những giọng điệu ở mọi điểm đều hướng về sự phát triển của ý đồ.”[11]. Poe cũng nhấn mạnh nên “bắt đầu bằng sự cân nhắc một hiệu quả cho tác phẩm.” Nhất là “luôn phải giữ quan điểm về sự độc đáo – bởi vì những ai liều lĩnh sử dụng nguồn hứng thú quá rõ và quá dễ dàng đạt được vì có sẵn thì sẽ lâm vào tình trạng giả dối với chính mình”[12]. Ngoài ra, dung lượng của tác phẩm được Poe cho là cần xem xét đầu tiên, bởi theo ông “Nếu như một tác phẩm văn học quá dài, không thể đọc được một mạch (one sitting), chúng ta sẽ bỏ mất hiệu quả quan trọng phát sinh từ sự thống nhất ấn tượng (unity of impression) – bởi vì, nếu như phải đọc làm hai lượt, những công việc sự vụ trên đời này sẽ xen vào và cái tổng thể lập tức bị phá huỷ” [13]. Điểm này cũng được ông nêu cụ thể hơn trong tiểu luận Phê bình những truyện kể hai lần của Hawthorne (Review of Hawthorne Twice Told Tales). Muốn đạt hiệu quả ấy, nhà văn phải cân nhắc, tính toán trướcnhững hiệu ứng nào sẽ gây ra nơi người đọc rồi mới chọn lựa, kết hợp các biến cố, các tình tiết để xây dựng thành tác phẩm, phải tạo ra những phương tiện biểu hiện làm tăng hiệu quả của sự rùng rợn và khiếp sợ. Và cũng có thể nói thiên tài của Poe là ở chỗ phát hiện rất sớm vai trò người đọc trong thời điểm bấy giờ. Nguyên tắc viết truyện ngắn này đã được Poe thử nghiệm trong nhiều tác phẩm của ông. Poe thường đặt bối cảnh truyện vào ban đêm, trong bóng tối; tập trung miêu tả những hình ảnh tưởng tượng ghê rợn đến kì lạ vốn không có trong hiện thực như trong Mặt nạ tử thần đỏ, Sự sụp đổ của ngôi nhà Usher, Cuộc trò chuyện với một xác ướp, Linh hồn, Con quỷ trên gác chuông, Con mèo đen…chuyện “nhập xác” trong Ligeria, chuyện Egaeus vì quá thương tiếc người yêu mà trong cơn mộng du đã đào huyệt…mang về 32 cái răng nhỏ trắng của nàng trong Berenice…. Bản thân những hình ảnh ấy đã gợi trí tò mò và sự kinh hãi nơi người đọc. Tính biểu tượng về màu sắc, ánh sáng, âm thanh cũng góp phần tạo nên hiệu ứng khiếp sợ này. Poe đã miêu tả được trạng thái đặc biệt của tâm hồn con người qua tâm lý trái ngược lạ lùng, càng sợ hãi, người ta càng bị sự tò mò thôi thúc và muốn chiến thắng nỗi sợ hãi bằng cách khám phá nó đến cùng.

    Cách kể chuyện trong hầu hết các truyện của Poe thường đi theo thời gian hồi tưởng, nhân vật trần thuật thường là ngôi thứ nhất nên truyện của Poe mang dáng dấp những tự thuật, tự thú, dằn vặt, gợi liên tưởng đến những giá trị phê phán xã hội, kinh tởm sự độc ác của con người, dù Poe tuyên bố tách rời văn chương với luân lý, đạo đức…. Giọng người trần thuật Ngôn ngữ độc thoại do chính nhân vật – cũng là người kể chuyện tự kể lại những câu chuyện kì dị, khủng khiếp của mình là chọn lựa khá phù hợp của Poe. Kĩ thuật này góp phần phơi bày những giằng xé nội tâm của nhân vật, hoặc tự phân tích nguyên nhân gây ra tội ác và khiến người đọc như chứng kiến được toàn bộ quá trình phạm tội và cảm thông, sợ hãi, kinh hoàng hay tự đưa ra những phán xét. Những lý thuyết truyện ngắn trên đã tạo nên phong cách tiêu biểu cho truyện ngắn của Poe mà ngày nay đã trở thành khuôn mẫu của thể loại.

     4.2. “Triết lý sáng tác” trong thơ ca

        Trong tiểu luận nổi tiếng “Triết lý về sáng tác”, Poe đã kể lại cách mình sáng tác bài thơ ‘Con quạ’ như thế nào. Những luận điểm cơ bản về quan niệm nghệ thuật của Poe trong tiểu luận trên chúng tôi đã giới thiệu (phần 2.1.) nên không lặp lại, chỉ nhấn mạnh kĩ thuật xây dựng cấu trúc và ngôn ngữ thơ của Poe bởi các bước sáng tác của ông khá trái ngược với lối thông thường. Trước tiên, Poe cân nhắc độ dài của bài thơ không nên dài quá vì sẽ làm người đọc không thể đọc liền một mạch. Bước thứ hai là chọn lựa cảm xúc định gây nơi người đọc, mà theo Poe, cảm xúc đó phải là sự thích thú, và giọng thơ phải buồn đến ảo não, bi thảm. Thứ ba, điều căn bản nhất là “bài thơ phải có một điểm làm điệu chính, có tính cách nghệ thuật, kích thích. Điểm đó sẽ là điệp khúc (refrain). Nhưng điệp khúc chỉ được lặp lại về âm thanh, chứ không được đơn điệu về ý tưởng.” (Nguyễn Hiến Lê, 1957, 15). Để tránh sự nhàm chán, trong mỗi điệp khúc, âm thanh không thay đổi mà ý tưởng thì phải thay đổi để gây cảm xúc mới cho người đọc. Tất nhiên, điệp khúc cũng không nên dài quá, tốt nhất là những từ đơn, đặt ở cuối mỗi đoạn. Điệp khúc này, theo Poe, phải có âm vang và dài. Đó là bước thứ tư. Rồi ông xét hết thảy các âm tiếng Anh và chọn kết hợp âm O và R thành điệp khúc “nevermore”. Thủ pháp này gần như là thủ pháp nghệ thuật chính trong thơ ông. Điệp khúc ở cuối mỗi khổ thơ, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, điệp đầu câu, điệp vòng tròn… đều có mặt dày đặc trong hầu hết các bài thơ kiệt xuất của ông. Có thể kể những cách sử dụng điệp khúc ấn tượng như:

    ·        Nothing more (6 lần), Nevermore (11 lần), my chamber door (7 lần), his chamber door (2 lần) –  (The Raven)

    ·        Not all (6 lần) our power, our fame,

    the magic, the wonder,

    the mysteries, the memories  (The Coliseum)

    ·        Keeping time, time, time (4 lần)  (The Bells)

    ·        From the  bells, bells, bells, bells,

                         BELLS, BELLS, BELLS-

                    Of the bells, bells,bells, bells

                                    Bells, bells, bells- (7 lần) – (The Bells)

    ·        In a kingdom by the sea (5 lần), my Annabel Lee (3 lần), the beautiful Annabel Lee (3) (Annabel Lee)

     Với ý thức chọn lựa âm thanh công phu, đúng là Poe đã tạo nên những âm thanh kì diệu bởi ngôn từ. Có thể thấy, chỉ riêng từ “bells” đã xuất hiện 61 lần/112 dòng thơ của bài ‘Những tiếng chuông’. Các từ thính giác và thị giác được liên kết tạo thành một giai điệu bất tận, lan tỏa, diễn tả sự tương hợp xúc cảm giữa con người và vũ trụ. Thủ pháp điệp khúc độc đáo này đã làm tăng nhạc tính cho thơ mà không bị cùn mòn về ‎nghĩa. Rimbaud, Verlaine và nhiều nhà thơ Pháp rất ngưỡng mộ kĩ thuật này.

              Bấy giờ mới đến bước thứ năm là tìm ý chính cho toàn bài. Chọn được đại ý rồi ông bắt đầu kiếm ý cho mỗi khổ và viết ngay khổ kết là khổ buồn thảm nhất và lấy khổ ấy làm chuẩn để viết các khổ trước nó. Cuối cùng ông mới chọn khung cảnh phù hợp cho bài thơ để làm tăng cảm xúc bi thảm đã định. Có thể thấy, Poe đã tính toán hết sức tỉ mỉ các yếu tố hình thức của một bài thơ từ âm thanh, từ ngữ, số câu, số đoạn đến hình ảnh và cảm xúc theo phương pháp hình thức quyết định nội dung. Giới phê bình Âu Mỹ và cả Việt Nam chúng ta đã có biết bao tranh cãi, hoài nghi về các bước hình thành bài thơ của Poe dù không phủ nhận tiểu luận này là tư liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu như đã nêu ở mục 3.

    Tính nhạc chính là luận điểm quan trọng xuyên suốt nhiều tiểu luận phê bình của Poe và sau này trở thành nguyên tắc quan trọng của thơ tượng trưng. Âm nhạc giúp thơ mở ra những chân trời mới không cùng cho tưởng tượng của người nghệ sĩ. Trong “Thư gửi B” (Letter to B), Poe khẳng định: “Âm nhạc mà không có ý tưởng chỉ đơn thuần là âm nhạc, còn ý tưởng mà không có âm nhạc thì chỉ là văn xuôi”[14](Baym Nina, 1989, 872). Mặc dù một số nhà phê bình Mỹ cho rằng “cái đẹp trong nhịp điệu và âm thanh của Poe thường chỉ có một nội dung trống rỗng” (Nguyễn Đức Đàn, 1996, 69), hoặc do ý đồ kỹ thuật quá đậm nên thơ của ông thiếu sự hồn nhiên, thành thực. Nhưng nếu đã đọc từng bước tỉ mỉ, cẩn thận theo logic mà Poe giải thích quá trình hình thành một bài thơ trong Triết lý về sáng tác, hẳn có thể thấy Poe là một nhà thơ lao động nghiêm túc đến độ tận tuỵ khi khổ công tính toán, chọn lựa hình ảnh, kết cấu, nhịp điệu cho thơ.

    Về ngôn ngữ, Poe thường dùng nhiều định ngữ nghệ thuật mang tính tráng lệpha lẫn khoa trương tạo ấn tượng mạnh về cảm xúc. Các nhà “Poe học” (Poe scholars) Mỹ và thế giới đã có nhiều công trình khảo sát diễn ngôn nghệ thuật của Poe và đề cao ông là một nhà tu từ học, phong cách học, người sáng tạo ngôn từ bởi sự tinh thông của ông về các phong cách đa dạng của ngôn ngữ văn chương và sự sử dụng từ ngữ, âm thanh khéo léo, tài tình đầy sáng tạo của ông. Burton R. Pollin đã liệt kê những từ đơn, từ ghép và danh từ riêng tiếng Anh do Poe sáng tạo hoặc sử dụng đầu tiên trong công trình Poe, Creator of Words của ông gồm 1143 từ mới xuất hiện trong văn học, nhiều hơn cả Melville 200 từ. Trong Bản chất của thơ ca (The Rationale of Verse), Poe nhắc lời Goold Brown định nghĩa: “Phép làm thơ là nghệ thuật sắp xếp từ ngữ vào những dòng thơ có chiều dài tương ứng, phù hợp để tạo sự hài hòa bởi sự thay đổi luân phiên của các âm tiết khác nhau (dài – ngắn) về số lượng”[15] (E.Poe, 1850, 217) theo một sự tính toán chặt chẽ. Mọi sự sắp xếp này, nếu đo lường được, có thể tìm thấy mối quan hệ toán học chính xác. Theo ông, “nguyên tắc sơ đẳng của thơ có lẽ chỉ tìm được trong nhịp spondee, và mọi mầm mống của ý tưởng đều có thể tìm được trong sự cân bằng của một nhịp có hai âm tiết”[16] (E.Poe, 1850, 223). Poe cũng đòi hỏi phải có sự hài hòa, tính chất du dươngtạo nên bởi tiết tấu trong từng vần thơ. Và, tính chất ấy chỉ có thể được tạo nên bởi Âm nhạc. Nhiều bài thơ của ông đã chứng minh quan niệm này. The Raven, The Bells, A Dream within a Dream, The City in the Sea, Annabel Lee…là những đỉnh cao nghệ thuật của thơ Poe không chỉ qua hình tượng nghệ thuật tượng trưng ám dụ, âm điệu u hoài mà còn là sức rung động của từ ngữ, nhất là những từ tượng thanh, cách dùng các phụ âm, hiệp vần, điệp khúc…, với một sự thấu hiểu kỳ lạ về nhiều chức năng của sự giao tiếp bằng ngôn từ.

                Trên đây là khái lược những nét cơ bản nhất về quan niệm nghệ thuật kì lạ, mới mẻ về Cái Đẹp, quan điểm sáng tác, triết lý và những nguyên tắc sáng tác một bài thơ, truyện ngắn của E.A.Poe thể hiện qua các tiểu luận phê bình độc đáo và thực tiễn sáng tác của ông. Thời đại Poe sống đã chỉ trích, phê phán, cho là điên rồ, nhảm nhí, chỉ một số rất ít đồng nghiệp của Poe tiếp nhận, bởi nó cách quá xa những kinh nghiệm họ từng đọc, từng biết trước đó. Oái oăm thay, cũng chính những tác phẩm bị nước Mỹ quê hương Poe ruồng bỏ lại được Châu Âu nồng nhiệt yêu mến, tôn thờ. Nga, Pháp, Ý là những nước đầu tiên phát hiện và tôn vinh thiên tài Edgar Poe. Và, một thế kỉ sau, từ các nhà tượng trưng Pháp, Poe lại được sự đồng cảm lạ lùng bởi các nhà văn, nhà thơ lãng mạn Việt Nam.


     5. 2011

    10. 2024

    HOÀNG KIM OANH


    CHÚ THÍCH

    [1] “Beauty is the sole legitimate province of the poem…That pleasure which is at once the most intense, the most elevating, and the most pure, is, I believe, found in the contemplation of the beautiful. [1, 1323]

    [2] “Truth, in fact, demands a precision, and Passion, a homeliness (the truly passionate will comprehend me) which are absolutely antagonistic to that Beauty” [1, 1322]

    [3] “In brief, the Poetry of words as The Rhythmical Creation of Beauty. Its sole arbiter is Taste. With the Intellect or with the Conscience, it has only collateral relations. Unless incidentally, it has no concern whatever either with Duty or with Truth.” (The Poetic Principle).

    [4] “this Principle itself is, strictly and simply, the Human Aspiration for Supernal Beauty, the manifestation of the Principle is always found in an elevating excitement of the Soul — quite independent of that passion which is the intoxication of the Heart — or of that Truth which is the satisfaction of the Reason” [1,1347]

    [5] “Beauty of whatever kind, in its supreme development, invariably excites the sensitive soul to tears. Melancholy is thus the most legitimate of all the poetical tones”  [1,1323]

    [6] “I could anticipate no regeneration save in death. That man, as a race, should not become extinct…he must be born again” (Cuộc trò chuyện của Monos và Una- The Colloquy of Monos and Una).

    [7] “While, on dreams relying, I am spelled by art.” (To Miss Louise Olivia Hunter)

    [8] “I have been happy, tho’ in a dream. I have been happy- and I love the theme” (Dreams)

    [9]  “Dividing the world of mind into its three most immediately obvious distinctions, we have the Pure Intellect, Taste, and the Moral Sense. I place Taste in the middle, because it is just this position which, in the mind, it occupies.” (The Poetic Principle) [1,1334]

    [10] I select “The Raven”, as most generally known. It is my design to render it manifest that no one point in its composition is referrible either to accident or intuition — that the work proceeded, step by step, to its completion with the precision and rigid consequence of a mathematical problem. (The Philosophy of Composition), [1, 1321]

    [11]“Nothing is more clear than that every plot, worth the name, must be elaborated to its dénouementbefore any thing be attempt with the pen. It is only with the dénouement constantly in view that we can give a plot its indispensable air of consequence, or causation, by making the incidents, and especially the tone at all points, tend to the developmentof the intention” (Philosophy of Composition) [1, 1319]

    [12] “Keeping originality always in view- for he is false to himself who ventures to dispense with so obvious and so easily attainable a source of interest” [1, 1320]

    [13] “If any literary work is too long to be read at one sitting, we must be content to dispense with the immensely important effect derivable from unity of impression – for, if two sittings be required, the affairs of the world interfere, and every thing like totality is at once destroyed.” [1, 1321]

    [14] “…Music without the idea is simply music; the idea without the music is prose…”(Letter to B)

    [15] “Versification is the art of arranging words into lines of correspondent length, so as to produce harmony by the regular alternation of syllables differing in quantity.”

    [16] “The rudiment of verse may possibly be found in the spondee. The very germ of a thought seeking satisfaction in equality of sound would result in the construction of words of two syllables, equally accented. In corroboration of this idea we find that spondees most abound in the most ancient tongues.” (The Rational of Verse). Spondee: một nhịp được dùng nhiều nhất trong thơ cổ, gồm hai âm tiết mạnh, có nhấn giọng – tạm hiểu tương đương như vần trắc như trong luật thơ tiếng Việt).

    *Những phần trích dẫn dịch từ nguyên tác không để tên người dịch là do tác giả bài viết tạm chuyển ngữ.


    TÀI LIỆU THAM KHẢO

     1.     Baym, Nina. 1989. The Norton anthology of American literature, NewYork – Lond: W.W.Norton.

    2.     Cabau, Jacques. 2009. Edgar Poe, khát khao sáng tạo và huỷ diệt, Khổng Đức dịch, H : Nxb. Thời đại.

    3.     Carlson, Eric W. 1973. Poe on the soul of man, Baltimore: Edgar Allan Poe society of Baltimore. S:1 – PSM, 1973.

    4.     Hà Minh Đức. 1997. Thơ và mấy vấn đề trong thơ hiện đại, H:Nxb GD.

    5.     Jakobson. 2008. Thi học và Ngữ học – Lý luận văn học phương Tây hiện đại, Trần Duy Châu biên khảo. H: Nxb. Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học.

    6.     Lê Huy Bắc. 2003. Cần chủ động hơn nữa trong việc tiếp cận văn học Mỹ. Trả lời phỏng vấn. Việt Báo. Đăng ngày 14-3-2003. Nguồn: http://vietbao.vn/Giai-tri/Can-chu-dong-hon-trong-viec-tiep-can-van-hoc-My/20005513/235/

    7.     Ngô Tự Lập. 2002. Tuyển tập Edgar Allan Poe. H : Nxb. Văn học.

    8.     Ngô Tự Lập. 2005. Minh triết của giới hạn. H : Nxb. Hội nhà văn.

    9.     Nguyên Sa. 1967. Một bông hồng cho văn nghệ. S: Trình bầy.

    10. Nguyễn Hiến Lê. 1957. Luyện văn. SG: Nxb. Nguyễn Hiến Lê.

    11. Nguyễn Đức Đàn. 1996. Hành trình văn học Mỹ, H: Nxb Văn học.

    12. Poe, Edgar Allan, 1984. Complete Stories s and poems of Edgar Allan Poe, USA: Publisher. Doubleday; Book Club edition (August 15, 1984)

    13. Poe, Edgar Allan. 1850. “The Rationale of Verse”, The Works of the Late Edgar Allan Poe, edited by Rufus Wilmot Griswold. Vol.II. Poems and Miscellanies, New York: J. S. Redfield,Clinton Hall. 1850, page 215-258.

    14.  Pollin, Burton R. (1973), (1998), Poe, Creator of Words. Bài tham luận kỉ niệm 50 năm thành lập The Edgar Allan Poe Society ở Baltimore, nguồn: http://www.eapoe.org/PAPERS/psblctrs/pl19741.htm.

     Nguồn:  Tạp chíKhoa học Xã hội- Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ, số 10 (158) 2011, trang 26-35


    TẠP CHÍ VĂN PHONG

    Chú Giải về Thơ Tân Hình Thức

    Ảnh Hiếu Trần
    Ảnh Hiếu Trần

    Tân Hình Thức
    Và Câu Chuyện Kể

    www.thotanhinhthucviet.vn


    Khi tôi ngồi uống cà phê ngoài lề
    đường và kể lại câu chuyện đã được
    kể lại, từ nhiều đời mà đời nào
    cũng giống đời nào, mà lời nào cũng

    giống lời nào, về người đàn bà và
    đàn con nheo nhóc (nơi góc phố được
    gọi là chỗ chết, nơi góc phố được
    gọi là chỗ sống), kẻ những đường kẻ

    bằng than đen; gãy góc, xấu xí như
    cái bóng trong tấm hình cũ, như dĩ
    nhiên hôm nay ngày mai ngày mốt,
    như thế thôi thì thế thôi, biết đâu chừng

    nhưng người đàn bà và đàn con nheo
    nhóc, vẫn kể lại câu chuyện đã được
    kể lại, như người khác đã từng kể
    lại, dù chẳng để lại gì ngoài câu

    chuyện đã kể, bởi câu chuyện đang tự
    kể lại, và không ai, ngay cả người
    đàn bà và đàn con nheo nhóc, bước
    ra ngoài câu chuyện đã được kể lại.

    Trong những tuyển tập thơ Hoa Kỳ như “Poems For the Mil-lennium” hay “Postmodern American Poetry”, sau mỗi bài thơ được tuyển chọn, thường có một đoạn chú giải (commentary) về bài thơ hay quan điểm về thơ của tác giả. Đối với thơ Việt, nhất là những bài thơ mang tính thử nghiệm, có lẽ cũng là cách hay, để người đọc có thể tiếp nhận và dễ đánh giá. Trong bài thơ “Tân Hình Thức và Câu Chuyện Kể”, tôi thử áp dụng một số yếu tố của thơ Tân Hình Thức Hoa Kỳ (New Formalism) vào thơ Việt, chọn thể tám chữ, mang giọng kể là thi pháp tự nhiên của đời thường (tính truyện), xử dụng kỹ thuật vắt giòng (enjambment), đọc liên tục từ dòng (line) này sang dòng khác, lập lại những nhóm chữ (như nhạc Rap) để tạo thành điệp vận và vần không hợp cách.

    Giống như một vật tìm được (found object), chúng ta vào một cái kho chứa, tìm kiếm, lục lọi một món đồ cũ, lấy ra dùng lại. Những nhà thơ Tân Hình Thức Hoa kỳ dùng âm giọng iambic pen-tameter, gần với ngôn ngữ nói thường ngày, kết hợp với chất liệu của đời sống hiện đại, sử dụng luật tắc đó như dụng cụ, tỉa bớt những âm rườm rà của ngôn ngữ nói, thành thi pháp đời thường (a poetics of the everyday). Nhưng thi pháp đời thường vì gọi như thế nên biến hóa và không dừng lại ở bất cứ định nghĩa nào, và chỉ có thể định nghĩa qua hàng loạt những thách đố, nắm bắt và thực hành khác nhau, bởi một điều, không phải dễ lấy thơ và phát hiện bí ẩn từ những thứ tẻ nhạt và tầm thường của đời sống. Đối với ngôn ngữ Việt thì lại càng mới mẻ, và cần những thử nghiệm của nhiều người, vả lại, những dị biệt trong cách phát âm và diễn đạt giữa hai hệ ngôn ngữ (tiếng Anh và Việt), tạo ra dị biệt trong phương cách và phong cách thơ.

    Nếu thơ Tiền chiến, cách tân bằng cách, dùng cảm xúc để thoát ra khỏi luật tắc cứng nhắc của thơ cổ điển, thì thơ Tân Hình Thức Việt (tạm gọi như vậy) sử dụng ngôn ngữ đời thường, kết hợp với một số yếu tố và kỹ thuật của thơ tự do tiếng Anh, phá vỡ âm hưởng Tiền Chiến, chấm dứt nửa thế kỷ dậm chân tại chỗ của thơ. Thơ cổ điển, theo phép làm thơ của Thơ Đường, với luật bằng (level tone), trắc (deflected tone), vần (rhyme) và cao độ (pitch, gồm 4 tone), lao tâm khổ tứ vì chữ (dùng và chọn chữ) thì thơ Tiền Chiến chỉ còn giữ lại vài yếu tố như vần (thường là cước vận), trau chuốt chữ và cách đọc ngừng ở cuối dòng. Thơ chủ vào cảm xúc, nhẹ phần nội dung, nên không ra ngoài cảm xúc và ảo giác, đôi khi lại là cảm xúc mơ hồ, được tạo ra từ những vần điệu du dương. Thơ kéo người đọc ra khỏi đời sống, và chính người làm thơ cũng lánh xa đời sống. Có lẽ vì vậy nên nhiều người tưởng lầm rằng thơ chỉ có thể cảm chứ không thể giải thích vì làm sao giải thích cái không thể giải thích, khi âm điệu và cảm xúc được coi như điều kiện thiết yếu để đánh giá là thơ hay. Thơ trở nên bí ẩn, thuộc về thế giới mộng ảo, và nhà thơ giống như một nhà soạn nhạc, viết ký âm bằng chữ (nhiều bài thơ vần phổ nhạc rất thành công cho thấy, hai thể loại này gần gũi trong cách sáng tác). Đã có nhiều nhà thơ, cố gắng thoát khỏi ảnh hưởng Tiền Chiến bằng cách làm mới ngôn ngữ và cảm xúc, tuy nhiên vì vẫn sử dụng phương pháp thơ Tiền Chiến, nên không những không ra khỏi, mà còn làm mạnh thêm ảnh hưởng đó. Ngay cả những nhà thơ tự do sau này, phá bỏ thể loại và vần, nhưng vẫn nương vào cảm xúc, âm và nghĩa chữ, chỉ khác là cảm xúc trong thơ Tiền Chiến dựa vào nhạc tính của vần điệu thì trong thơ tự do, hoặc dựa vào ý tưởng và âm chữ, hoặc vẫn dựa vào cách tạo nhạc của Tiền Chiến. 

    Khi sử dụng thi pháp đời thường thay thế thi pháp cảm tính (nếu có thể gọi như vậy), là đưa hẳn thơ qua một thời kỳ khác. Những yếu tố của thơ truyền thống như liên tưởng, hoán dụ hay ẩn dụ … và hàng loạt các yếu tố khác, chắc không còn đất sống vì mỗi thi pháp đòi hỏi những yếu tố thích hợp, được phát hiện trong quá trình sáng tác. Thơ khuấy động và khích động bởi những cuộc phiêu lưu đúng lý và đúng nghĩa, chẳng khác nào, thế giới đang đi tìm một trật tự mới để thay thế một trật tự đã cũ. Thơ không còn tùy thuộc vào nỗ lực của từng cá nhân, mà là những vận động rộng lớn của cả một thế hệ, như một trào lưu, xác định tiếng nói và bản chất của một nền văn hóa ở một thời điểm đặc biệt của lịch sử thi ca. Nhưng nhà thơ khi chọn một ngôn ngữ bởi sự quyến rũ và lòng yêu mến, và là ngôn ngữ họ có khả năng nhất để biểu hiện thơ, ở đây là tiếng Việt, cớ gì không hợp quần, nhiều phong cách làm một phong cách, nhiều tiếng nói làm một tiếng nói, thành một phong trào đầy tự tin và hào hứng.

    Điều này đòi hỏi chúng ta, phải xóa bỏ những định kiến và tự mãn cá nhân, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, trong tinh thần giống như thi pháp đời thường, có gì là quan trọng và ghê gớm đâu. Chúng ta cứ thoải mái sao chép (copy), càng nhiều càng tốt, và không ai cấm được chúng ta bắt chước lẫn nhau trong trò chơi nhiều thú vị này. Một nhận xét khá phổ biến về thơ: “Poetry is fun – serious often, but fun. It is also communal.”

    Những phân tích đơn giản trên có thể chưa đúng hoặc không đầy đủ, chỉ là chủ quan của người viết, dẫn tới nhận xét, mỗi thời kỳ thơ, có luật tắc tạo nhạc khác nhau. Nhạc trong thơ cổ điển khác với Tiền Chiến, và Tiền Chiến khác với thơ bây giờ. Đổi mới thơ, chính là đổi mới phương cách tạo nhạc, luật tắc và phương pháp biểu hiện. Thơ cổ điển và Tiền Chiến phải ngâm, thơ Tân hình thức chỉ để đọc, nhưng khác với thơ tự do trước đó, thơ Tân hình thức có những luật tắc căn bản để tạo thành nhịp điệu, và người làm thơ theo đó phát huy được nhạc tính cho thơ. Khi đọc, chúng ta cảm thấy thanh thoát tự nhiên, như đang hít thở không khí, gặp gỡ ngoài đường phố, giao tiếp với bạn bè, và với mọi người. Đó là thứ âm nhạc trò chuyện (music of conversation), phong phú và hàm súc, mỗi lúc mỗi khác, và là những khoảng khắc có thực của thực tại. Thơ được chắt lọc và bước ra từ thực tại, mà thực tại thì, không nằm ở trong mù sương, thuộc về quặng mỏ chứa đầy chất đời. Nhưng bây giờ có lẽ còn quá sớm để tiên đoán, thơ có ra khỏi và làm một bước ngoặt mới, tùy thuộc vào những nhà thơ có dám dứt khoát với những giấc mộng đêm qua?

    (Đề cập tới thơ cổ điển, Tiền chiến hay thơ tự do Việt không phải là để phán đoán, mà rút ra từ kinh nghiệm của chính tôi. Ở thời kỳ đầu, tôi làm đủ thể loại từ thơ vần tới tự do, chủ ý làm mới cảm xúc và ngôn ngữ, và thấy rằng, cũng chỉ là làm mới Tiền Chiến, và nếu có một chút giá trị thì đó là giá trị của một chặng đường đã qua (tập thơ Thanh Xuân). Tới thời kỳ hai, tôi thoát hẳn ra bằng cách sử dụng dòng động lực và sự chuyển động của ngôn ngữ, đi tìm một cấu trúc mới (tập thơ Dấu Quê). Tiếp theo đó là những kết hợp giữa thơ và nhiều nguồn khác nhau như thơ và kịch, kể cả bằng graphic … và tưởng rằng đã đi khá xa so với thời kỳ đầu. Nhưng vấn đề không phải đi xa hay gần mà tôi nhận ra, thơ có quyền năng, và chỉ có thơ mà thôi, cho chúng ta biết giới hạn và thất bại của mình. Nhà thơ đều là những kẻ thất bại, và nếu không nhận ra được điều đó, có lẽ chẳng bao giờ họ trở thành nhà thơ. Thất bại làm cho nhà thơ nhận ra được chính mình và mọi người, thúc dục họ phải đi tới mãi, cho đến bao giờ thôi không còn đi được nữa. Phủ nhận chẳng qua là phủ nhận những thất bại để làm lại một thất bại khác. Vấn đề là thất bại lớn hay nhỏ, và chúng ta có dám đối mặt với nó hay không. Những ngành khác có thể đưa chúng ta đến vinh quang, nhưng thơ ngược lại, đưa chúng ta trở lại đời thường, mà đời thường thì có cả những dị thường).

    Thật ra, không phải thơ tự do khước từ hình thức cũ của truyền thống, mà một cách sâu xa, do những qui ước văn học và thái độ xã hội, chỉ hợp thức hóa, và để nó vào đúng chỗ. Làm mới là đi tìm những hình thức mới. Thoát khỏi hình thức, phản ứng lại hình thức, là diễn đạt bằng hàng loạt những hình thức khác nhau. Không có hình thức, không có tiếng nói, bởi tiếng nói vẫn nằm trong qui luật của ngôn ngữ, vả lại dù là không hình thức (formless) thì đó vẫn là hình thức. Thơ tự do và truyền thống tuy hai mà một, chỉ là chọn lựa cách diễn đạt. Và khi, cùng một lúc, những thái độ và giá trị cũ đã hoàn toàn biến mất, mất tăm như những nền văn minh cổ đại, thì những nhà thơ, trên bước đường tìm kiếm, bắt gặp truyền thống, như tìm được thời gian đã mất. Như vậy, dùng lại hình thức thơ truyền thống, cũng chẳng khác nào làm mới, theo đúng nghĩa của những nhà thơ hiện đại.

    Nhưng những nhà thơ Tân hình thức chẳng dừng ở quan niệm làm mới, vì đó là phương cách của thời hiện đại, mà dùng thể truyền thống hòa trộn với chất hiện đại (bao gồm thơ tự do) giống như kiến trúc hậu hiện đại, tạo thành một thể lai, hoàn toàn khác, không những hóa giải và làm tan biến truyền thống, mà cả hiện đại. Thơ tự do (trong ngôn ngữ tiếng Anh) làm khó người đọc, vì tùy thuộc vào sự căng thẳng hay sức ép giữa văn phạm và chiều dài của dòng, của đoạn thơ. Mỗi đặc tính có những cách dùng riêng biệt và được cân nhắc bên trong bài thơ, và người đọc phải phải tạo ra tiến trình đọc, bởi những biến cố được lập lại trong cấu trúc, ngẫu nhiên và tình cờ, từ những âm vang dầy đặc của ngữ pháp và những hiệu quả thị giác. Hóa giải, cũng có nghĩa là giải phóng kỹ thuật, dù có một thời là những cánh cửa đóng, phải mở ra trước khi đi vào cõi thơ.

    Chữ nghĩa, hình ảnh bóng bẩy và cầu kỳ không còn, chỉ còn sự đơn giản, tự nhiên như một dòng đời sống. Vần và chỗ ngắt không bất di bất dịch chỉ ở cuối dòng, mà cũng giống như thơ tự do, xuất hiện ở những chỗ không thể đoán trước. Nhà thơ Ba Lan Wyslawa Symborska khi nói rằng: “Trong văn xuôi có không gian cho thơ, nhưng trong thơ chỉ có không gian cho thơ.” Vậy thì thế nào là một bài thơ văn xuôi (a prose poem)? Ở điểm nào nó là thơ và ở điểm nào không phải là thơ? Đâu là dòng (line) và đâu là câu (sentence)? Dòng thơ có thể là một câu (a self-enclosed line), cũng có thể chỉ là một phần của câu (phrase), và phải cần nhiều dòng mới hợp thành câu? Khi dùng cách vắt dòng (enjambment) phá đi cách đọc dừng lại ở cuối dòng, người đọc bị thúc đẩy đi tìm lại phần đã mất (của câu), tốc độ đọc nhanh hơn, và phải đọc bằng mắt. Điều này gợi tới ý niệm thời gian và không gian trong thơ. Cái phần mất đi ấy là phần gì, phải chăng là một phần đời sống, của quá khứ hay của tương lai, và như thế, hiện tại không lẽ chỉ là cái trống không? Nhưng cái trống không ấy lại chẳng trống không vì những chuyển động không ngừng của cái biết và chưa biết, đè lấp lên nhau. Thơ bật lên từ sự vặn vẹo và phức tạp của văn phạm và cú pháp (syntax), tạo thành nhịp điệu và nhạc tính. Điều rõ ràng, bài thơ và tri giác về nhịp điệu (perception of rhythm) không nằm ở ngôn ngữ (chữ), mà ở nội dung ngôn ngữ (the content of the language). Nội dung ngôn ngữ chính là những chuyển động của cảm xúc trong phạm trù văn phạm và cú pháp. Nói như thế, chẳng khác nào chúng ta đi đến một kết luận, người làm thơ, trước khi làm thơ phải rất giỏi về văn xuôi. Chữ có thể chết đi, và khai sinh nhưng văn phạm và cú pháp thì không, giống như một dòng tâm tình, có tính phổ quát, chuyên chở chất sống của đời sống, dù rằng chúng ta có sống ở bất cứ thời nào và nơi chốn nào. Những nhà thơ Ngôn Ngữ Hoa Kỳ là những người được tinh luyện trong cú pháp, đã từng đẩy tới cùng cực, dùng cú pháp phá vỡ cú pháp, xóa bỏ ranh giới giữa thơ và văn xuôi.

    Thơ rơi vào sự tối tăm khó hiểu, nhiều khi chẳng phải vì tư tưởng cao siêu gì, mà vì sự lủng củng của cú pháp, cũng như nếu thiếu nhạc tính, thơ sẽ chỉ còn là một đống ý tưởng và ngữ nghĩa, làm thất vọng người đọc. Nhưng nhạc tính trong thơ không giống với nhạc tính trong âm nhạc. Bài thơ như một bức tranh nói. Chúng ta đọc một bài thơ, không giống như nghe một bản nhạc, bởi những âm thanh của tiếng nói bất qui luật (irregular), trong khi âm nhạc, nằm trong qui luật. Trong nhạc là một chuỗi âm thanh liên tục từ khởi đầu đến chấm dứt, trong khi thơ thì không. Ngôn ngữ sở hữu ngữ nghĩa, tạo thành những dòng chảy, cùng với cấu trúc cú pháp, lệ thuộc vào bản văn văn hóa và bản sắc cá nhân. Sự tác động hổ tương giữa hình ảnh và ngữ nghĩa tràn đầy và quyện lại, khác với những chuyển động không ngừng của âm thanh trong âm nhạc. Chúng ta đọc, dừng lại, rồi lại đọc, hình ảnh và ý tưởng dội ngược, chồng chất lên nhau; tiếp tục đọc, định hướng (thematic direction), kết hợp thêm hình ảnh và ý tưởng mới, dừng lại để nắm bắt những chuyển động; đọc lại để ghi nhớ, tiếp tục đọc và lập lại ngay tức khắc để kết hợp tất cả những khác biệt trong động tác đọc. Đọc, trừ ra trong một khoảng khắc tạm thời, thì không có đường nối. Chúng ta đẩy các chữ, và nhóm chữ (phrase) ra xa, rồi dàn dựng lại trên cái nền trí tưởng, trong cái cách mà tác giả cũng không thể nào tiên đoán trước, ngay cả khi tác giả và người đọc là một.

    Thơ Tân Hình Thức có một vài tên gọi khác, như Thơ Mở Rộng (Expansive Poetry), thơ Hậu Ngôn Ngữ (Postlanguage Poetry), và mỗi thuật ngữ, như một cánh cửa mở, nối (link) thơ với truyền thống và các bộ môn khác (âm nhạc, kịch, điện ảnh…). Thơ Tân Hình Thức cũng giống như Hyper Poetry, Hyper Text Poetry, là một ngã rẽ, phản ứng và kết hợp, thoát xác và hồi sinh, mục đích là tìm ra một nền thơ cho thời đại mới. Gọi là thơ Hậu Ngôn Ngữ là muốn thơ tiếp nhận những đóng góp lớn lao của phong trào thơ Ngôn Ngữ trước đó để làm nguồn sức mạnh. Gọi là thơ Mở Rộng là đưa thêm vào thơ cấu trúc truyện kể (narrative structure). Thơ không thể định nghĩa hay định nghĩa nằm trong tiến trình đi tìm định nghĩa, phá bỏ mọi giới hạn, dung chứa mọi thời kỳ và gấp lên nhiều lần, tránh đi những khúc mắc tu từ bằng cách đưa vào thi pháp đời thường. Một trong những luận cứ mạnh mẽ những nhà thơ Tân hình thức đưa ra, là trên hai thập niên qua, thơ tự do (free verse) đã trở thành nhàm chán, nhạt nhẽo, nghèo nhạc tính, không có gì nổi bật, làm mất nhiều độc giả, và cuối cùng thì thơ thu hẹp lại, không ra khỏi phạm vi những trường đại học. Chủ ý vẫn là tìm ra một nền tảng nhạc tính mới, như âm nhạc đã liên tục biến thể, để phù hợp với khung cảnh văn hóa, xã hội của thời đại. Bài thơ là tiếng nói của sự thực, như những câu truyện phải nghe hàng ngày và nhiều lần trong đời, và những chữ lập đi lập lại, chẳng đã lắng trong ta, âm thanh và ý nghĩa, mỗi lúc mỗi khác hay sao.

    Thơ đòi hỏi phải định nghĩa lại mọi thể loại, để không bao giờ dừng lại cái định nghĩa khởi đầu. Thơ Tân hình thức, dù sao cũng chỉ là một mặt tích cực trong nhiều mặt của thơ hậu hiện đại, một nền thơ luôn luôn bất định. Từng ngày qua, chúng ta tiếp nhận quá tải những thông tin, hình ảnh, và những mẫu truyện bằng mắt qua truyền hình, cắt chính chúng ta thành những phần mảnh, phần mảnh kinh nghiệm, ý nghĩa và cả phần mảnh văn hóa. Sự rời rạc là triệu chứng của thời hiện đại và hậu hiện đại khi đã phá vỡ tính truyện kể của truyền thống. Những cái gì lớn vẫn lớn đấy, nhưng cô đơn và vô tích sự, chỉ còn là một cách nói, nào có mang thêm thi vị và ý nghĩa cho đời sống. Và có lẽ thi pháp của thời hậu hiện đại là thứ thi pháp không thể biện giải (non-apologetics), vì nó luôn luôn biến đổi và nối kết phức tạp với nhiều loại thi pháp khác nhau. Vả chăng, thơ Tân Hình Thức có tạo ra được gì đâu (enjambment là kỹ thuật đã có từ lâu), chỉ tái sử dụng (recycle) những gì đã có sẵn, chẳng khác nào trò cắt dán, nhưng là trò cắt dán tinh vi và đầy nghệ thuật, cung cấp và làm phong phú thêm phương pháp thể hiện cho thơ. Dĩ nhiên, có những yếu tố, chúng ta có thể áp dụng vào thơ Việt, và có những yếu tố khác, chúng ta phải tái định nghĩa cho phù hợp với ngôn ngữ Việt.

    Nhìn lại mọi thời kỳ, từ truyền thống đến tự do và Tân hình thức, thơ như sợi chỉ xuyên suốt, luôn luôn đổi thay, phù hợp với nhịp đập của mỗi thời đại. Chúng ta vừa bước qua một ngưỡng cửa, bỏ lại đằng sau, những cuộc cách mạng nẩy lửa, những biên giới ngăn cách, những biến cố kinh hoàng để bước vào một kỷ nguyên đầy nhân bản, quay về với con người, với đám đông. Áp dụng ngôn ngữ tự nhiên của đời thường, tính truyện, quảng cáo, Pop Art… chẳng phải là chỉ tìm kiếm người đọc, lấy lại sức mạnh cho thơ giữa những ưu thế của TV và điện ảnh, mà cũng là phản ứng đối với một nền văn minh, đang chia cắt và đẩy con người tới bờ vực ảo. Mỗi yếu tố trong thơ, đều ngầm chứa một ý nghĩa. Mỗi đời sống cá nhân được kể như một câu truyện với khởi đầu và kết thúc, và không có ai là tác giả hay là chính câu truyện của đời họ. Chẳng phải những người kể truyện lang thang từ thời xa xưa, đã mang những hành động và nhân vật sống lại, và nếu không có họ thì mọi thứ đều vô nghĩa. Tính truyện làm chúng ta trở thành có thực, đối với người khác và đối với chính mình, cho chúng ta biết làm sao thích hợp và sống trong một thế giới, và nếu không có chúng ta, cái thế giới ấy chỉ là một hành tinh xa lạ. Nên nhớ rằng, hành động viết, là nhìn thấy những điều không thể nhìn thấy, đưa đôi mắt cho mỗi người để có thể nhìn thấy nhau, và cho thế giới biết về sự hiện hữu của con người.

    Bài thơ chỉ có chức năng như một dẫn chứng để làm nổi bật lên một vài yếu tố khả dĩ có thể áp dụng vào thơ Việt. Phương pháp hay những yếu tố thơ đều mang tính duy nhất, nhưng mỗi người áp dụng sẽ có những hiệu quả khác nhau. Chúng ta hãy cùng bước trên một con đường, dẫn dắt nhau, chẳng phải vì một cá nhân mình, mà cho sự hưng thịnh của thơ. Sự thất bại hay thành công không phải là điều quan trọng, mà là một dấu mốc cho những thế hệ mai sau, đỡ đi những vấp ngã. Nhìn lại trong suốt một chiều dài lịch sử văn học, từ thơ cổ điển, Tiền Chiến đến tự do đã có những tác phẩm định hình cho nền thơ Việt. Ngay bây giờ, chúng ta vẫn còn phải trở lại những thời kỳ đó, để học hỏi, rút tỉa kinh nghiệm và làm khác đi, mở đầu cho một nền thơ tân kỳ. Chúng ta chỉ xứng đáng, và tiếp nối được với công sức lớn lao của những thế hệ trước, nếu tìm ra được phương cách biểu hiện, tạo thành một chuyển tiếp, và chứng tỏ, thơ Việt vẫn là một nền thơ tràn đầy sức sống. Lịch sử đã sang trang, và một thời kỳ mới cũng đã bắt đầu, có một ý nghĩa vô cùng chuẩn xác. Chuẩn xác vì ai cũng biết, chúng ta không thể sống với một tâm tư cũ, những thói quen cũ. Chào đón một thiên niên kỷ hay một tân thế kỷ không phải chỉ là một lời nói suông, mà mỗi chúng ta cần phải chấp nhận sự lột xác. Sự học hỏi chỉ có ích nếu giúp cho chính chúng ta và mọi người áp dụng vào được trong sự thực hành. Chúng ta cần nhiều người tham gia vào công cuộc chung, có như thế mới thay đổi được, và chính thức bước vào một thiên niên kỷ mới.

    Mùa Xuân 2000


    Tác phẩm xin đồng gửi về tapchitho2022@gmail.com | thotanhinhthuc@gmail.com | info@thotanhinhthucviet.vn | tốt nhất có thể đăng ký và đăng bài lên trang diễn đàn 


    Bài đọc tham khảo

    MỘT VÀI KHÁI NIỆM VỀ THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    CHÙM THƠ ĐẠT GIẢI THƠ TÂN HÌNH THỨC 2007

    SÁNG TÁC THEO CÁCH LÀM THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    ĐỌC – DIỄN THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    ĐỌC THƠ DIỄN ĐÀN: Kỳ 1

    BƯỚC ĐI / VÀO THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    TÂM –/CẢM THỨC THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    Thể lệ Cuộc thi thơ Tân hình thức

    và các bài tiểu luận sách báo khác – xin chân thành cảm ơn đóng góp của quý đọc giả./.

    QUI ĐỊNH GIẢI DIỄN ĐÀN THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    QUI ĐỊNH
    GIẢI DIỄN ĐÀN THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    www.thotanhinhthucviet.vn


    Giải Diễn đàn thơ Tân hình thức Việt được trao tặng cho những bài thơ do các thành viên tham gia sáng tác trong mục “Thơ Sáng Tác”. Những sáng tác của những thành trong Ban quản trị và Ban biên tập không được xét để trao giải thưởng.

    Giống như những giải thơ trước kia, giải thơ không thể chỉ là 1 bài thơ, mà là một tập thơ (trong giải Diễn đàn hạn chế lại chỉ còn 1 chùm thơ, từ 5 tới 10 bài trở lên). Không có giải thơ nào trao cho 1 bài thơ, vì như thế sẽ không đúng tiêu chuẩn của giải thơ.

    Ban biên tập chọn những bài thơ hay trong tuần đưa vào hồ sơ thơ của từng tác giả, trong “Thơ do ban biên tập chọn” (có tuần không có).

    Đến cuối năm, sẽ chọn một chùm thơ của một tác giả để trao giải. Thời hạn từ 1 tháng 1 tới 31 tháng 12 trong năm. Giải thưởng sẽ được công bố vào tháng 1 năm tới.

    Những thành viên có thể tham gia vào trong việc tuyển chọn bằng cách vào đọc những hồ sơ thơ của những tác giả và đóng góp ý kiến của mình (comments). Ban Biên Tập sau khi quyết định tác giả trúng giải, sẽ đề cử một thành viên trong Ban Biên tập phát biểu quan điểm.

    Thơ Tân hình thức có những tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng, đó là những bài thơ có nhịp điệu (rhythm) độc đáo và lôi cuốn, cùng những ý tửơng trẻ trung, mới lạ, thể hiện đựơc những sinh động trong đời sống chung quanh. Vì thế, giải Diễn đàn thơ Tân hình thức Việt xét duyệt, dựa trên căn bản giá trị và luật tắc của dòng thơ này: Ý tưởng có thể làm cái tầm thường trở thành mê hoặc (Guillaume Apolinaire). Và kỹ thuật lập lại phải có tác dụng làm thành nhịp điệu thơ.

    Những tác giả đã từng nhận giải thơ Tân hình thức: Nguyễn Tất Độ (2007), Biển Bắc (2007), Giảng Anh Iên (2008). Nếu tính thêm giải do Tạp chí Sông Hương trao cho nhà thơ Hường Thanh, thì cho tới nay đã có 4 nhà thơ có những chùm thơ nhận được giải thơ này.

    Giải thơ được trao với hiện kim 5 triệu tiền Việt Nam cho một giải duy nhất.

    Giải thơ dự trù hàng năm, nhưng chỉ có thể bắt đầu khi Ban Điều Hành và Ban Biên Tập nhận thấy có nhiều thành viên tham gia sáng tác và chất lượng thơ đủ để xét trao giải. Quyết định trao giải sẽ được thông báo trong mục “Giải thưởng thơ”.

    Thơ Tân hình thức Việt là một dòng thơ mới, vì vậy, để giúp cho các thành viên thuận lợi hơn trong việc sáng tác, đây là một vài góp ý:

    “Trước khi sáng tác, phải chọn chủ để bài thơ, sau đó qua chủ đề (theme) chúng ta chọn giọng thơ (tone) cho phù hợp với chủ đề. Giọng bài thơ là cảm xúc biểu lộ của tác giả qua chủ đề bài thơ, còn tâm trạng (mood) là cảm xúc người đọc tiếp nhận qua giọng của bài thơ.

    Ý tưởng đưa tới phương cách tìm kiếm chủ đề sáng tác Nhịp điệu đưa tới cách làm thơ.

    Tìm kiếm chủ đề: Thơ Tân hình thức Việt đi vào đời sống, vì vậy cách tìm chủ đề sáng tác dựa vào mọi nguồn kiến thức. Với phương tiện google, nhà thơ dùng những chữ, nhóm chữ, mệnh đềcâu, liên hệ tới chủ đề và tình tiết bài thơ, để tìm kiếm những tài liệu nghiên cứu, những câu truyện có thực trong đời sống, qua những bản tin, phóng sự, video trên internet.

    Cách làm thơ: “Thơ tự do viết và sửa đi sửa lại trên trang giấy (đa số những nhà thơ tự do nổi tiếng, đều sửa lại thơ họ). Còn thơ Tân hình thức, người làm thơ đọc thầm trong đầu, phối hợp những âm thanh bằng trắc và những chữ lập lại trong bài thơ, để tạo thành nhịp điệu.” Vì vậy, phải theo đúng cách sáng tác thơ Tân hình thức, tuyệt đối không viết một đọan văn xuôi trên giấy, đếm chữ xuống dòng, mà chỉ ghi lại khi bài thơ đã xong (để hiệu đính và tiếp tục hoàn chỉnh), hoặc ghi xuống từng câu để khỏi quên, trước khi tiếp tục những câu thơ khác. Vì tiến trình làm thơ Tân hình thức là đọc thầm trong đầu, chứ không phải dựa vào cây viết và tờ  giấy. Hơn nữa, kỹ thuật lập lại của thơ Tân hình thức Việt phải nương theo giọng bài thơ, mới tạo ra được nhịp điệu tự nhiên (hay giọng điệu), và mỗi bài thơ có những giọng điệu khác nhau. Có như thế, chúng ta mới nối kết những câu thơ với nhau bằng hơi thơ, nhịp điệu mới gắn bó tự nhiên với ý tưởng.


    Tác phẩm xin đồng gửi về tapchitho2022@gmail.com | thotanhinhthuc@gmail.com | info@thotanhinhthucviet.vn | tốt nhất có thể đăng ký và đăng bài lên trang diễn đàn 


    Bài đọc tham khảo

    MỘT VÀI KHÁI NIỆM VỀ THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    CHÙM THƠ ĐẠT GIẢI THƠ TÂN HÌNH THỨC 2007

    SÁNG TÁC THEO CÁCH LÀM THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    ĐỌC – DIỄN THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    ĐỌC THƠ DIỄN ĐÀN: Kỳ 1

    BƯỚC ĐI / VÀO THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    TÂM –/CẢM THỨC THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    Thể lệ Cuộc thi thơ Tân hình thức

    và các bài tiểu luận sách báo khác – xin chân thành cảm ơn đóng góp của quý đọc giả./.

    Rabindranath Tagore – Tác giả yêu thích của tôi

    Remembering Rabindranath Tagore and His Wise Words

    Rabindranath Tagore – My Favourite Author

    The first time I had sung the National Anthem composed by Rabindranath Tagore, the rhythm and the tune touched my heart and magnified the love for Bangladesh. I started reading his short stories and poems, which he created for children gave me real pleasure. His power of simplification and showing the beauty of truth within little things for extensive exemplification for which my inquisitiveness feelings make him my favorite author. The Tagore’s were of a cultured and wealthy family. Rabindranath Tagore was born in 7th May 1861 and died in 7th August 1941. His father, Devendranath, was one of the leaders of the Brahma Samaj. The poet’s early life was spent in an atmosphere of religion and arts, literature, music and paintings. As an author, the trend of his life was early contemplated. He was brought up and taught on three languages- Sanskrit, Bengali and English.

    Tagore’s literary life outspread over sixty years, and he reminds one of Victor Hugo in the copiousness and variety of his work: over one thousand poems; nearly two dozen plays and play-lets; eight novels; eight or more volumes of short stories; more than two thousands songs, of which he wrote both the words and the music; and a mass of prose on literary, social, religious, political, and other topics. In addition to his English translations of some of his literary works; his paintings; his travels and lecture-tours in Asia, America, and Europe; and his activities as an educationist, as a social and religious reformer, and as a politician- and there we have, judged by quantity alone, the life work of a Nipple. Suffice it to say that his genius was no more than the capacity for taking infinite pains; but to note the element of steel and concrete that went to his making, and thus to dispose of the legend, that has grown in some quarters in recent years, of Tagore the pale-lily poet of ladies’ table.

    In 1901 he founded his school, the Santiniketan, at Bolpur as a protest against the existing evil system of education. The school was a great success and transfigured Viswabharati. On revisiting England in 1911 he brought with him the English Gitanjali, and it’s publication in 1912 and the award of the Nobel Prize for literature the following year made him world-famous. This was the first award of that prize to an Asiatic. The rest of Tagore’s life was spent at Santiniketan, except for several travels and lecture-tours in which he carried his message of human unity to all the important countries of Asia, America and Europe.

    Tagore was a proud and ardent patriot. His most intense period of political activity was in the years following 1905, when the agitation against the partition of Bengal was at its highest speed. He renounced his knighthood in 1919 as protest against the Amritsar affair in a letter to the Viceroy, which is among the great documents of freedom. His patriotic poems and songs, particularly the latter, have passed into the common heritage of his country; the song “Bharata-bhagya-vidata” is now sung all over India and “Amar sonar Bangla” in Bangladesh as the national anthem. In this respect I would like to discuss a few of his books which have stirred my heart towards having an unbounded pleasure of spiritual as well as real cultural life.

    HOIMONTI

    It is a remarkable short story where Tagore has tried to reflect a contrast between the two families comprising of conservatism and modernism. Hoimonti was educated in modern system of education where her father had influenced her by proper knowledge, culture, heritage and means to retaliate the real life situation. But as ill luck would have it, she was married with Opu, a son of conservative family. This family believed in superstitions and social customs. Opu’s father and mother had prejudice, which would influence Hoimonti tremendously. In the last Hoimonti was faded and her father-in-law was looking for another bride for his son.

    BOLAI

    This story is about a boy who doesn’t have a mother and was brought up by his aunt. He developed the character, which is different from his age group. He has an uncommon fondness towards the plants and trees. Bolai would not tolerate if anybody would weed out any plants and trees. He thought that every plant has a unique life, which is unknown to everybody. He showed all his love and sympathy even for the tree which grew in an unsuitable place. In the last his most favourite tree was cut down when his father took to Shimla for higher studies. Bolai’s aunt was shocked at the demolition of the tree, which she thought was the personification of Bolai.

    SHESHER KABITA

    It is a famous novel created by Tagore. The actress of the story is Labonno and the actor is Amit. The contrast and love affairs of them have been reflected in a significant manner. The book has the greatest literary value in the world. The real love an affair with high world literature has been vividly reflected here where the two craving personalities are eagerest to know each other. They were devoid of greed, jealousy, allusion and bad temperament and they know how to tackle the social confliction and criticism of social critics.

    KABULIWALA

    The main characters of this story are a girl named Mini and Rahmat the Kabuliwala. Kabuliwala is from Afghanistan; he sells things from door to door. Once she was introduced to Mini, the talkative girl who was five years old. The man has left his daughter who is of Mini’s age back home. Mini and Kabuliwala developed a very good friendship. Kabuliwala used to bring dry fruits for Mini as present and showed the patience of listening to Mini. They used to tease each other about “going to in-laws house”. For some reason the man has to go to prison for eight years. After coming from jail he wanted to meet Mini. But, at that time Mini’s marriage ceremony was going on. In the past eight years she has forgotten her friend Kabuliwala. She was not friendly like her childhood and was feeling shy seeing him. Kabuliwala could feel the distance the time has passed between them and his daughter.

    POSTMASTER

    It is a short story by Rabindranath regarding a postmaster. The postmaster was transferred to a village post office of India. Here he met a girl named Ratan with whom he would always continue conversation hours after hours. One day the postmaster fell ill, Ratan has looked after him and in this way a close relationship was developed between them. When the postmaster was transferred to the town again the girl became shocked and she asked him to take her with him but the postmaster was not in a position to take her. Rattan lived with the sheer pain of the lovely memory; she had spent with the postmaster.

    I like Rabindranath’s book because I come to learn many things about the land, people and nature. We learn the problems, religion, culture and heritage of Bengali life. His books sometimes really create thrill, intuition and excitement for the readers by reflecting the social conflicts and contrast between conservative and modern educated people. Furthermore, his poetry ingrained in common life has been vividly contemplated in a significant manner, which stir my heart to a great extent.


    Lần đầu tiên tôi hát Quốc ca do Rabindranath Tagore sáng tác, nhịp điệu và giai điệu đã chạm đến trái tim tôi và làm tăng thêm tình yêu dành cho Bangladesh. Tôi bắt đầu đọc những truyện ngắn và thơ của ông, những tác phẩm mà ông sáng tác cho trẻ em, khiến tôi thực sự thích thú. Sức mạnh giản lược và thể hiện vẻ đẹp của sự thật trong những điều nhỏ nhặt để minh họa sâu sắc, khiến cảm xúc tò mò của tôi khiến ông trở thành tác giả yêu thích của tôi. Gia đình Tagore xuất thân từ một gia đình có học thức và giàu có. Rabindranath Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861 và mất ngày 7 tháng 8 năm 1941. Cha của ông, Devendranath, là một trong những nhà lãnh đạo của Brahma Samaj. Cuộc sống thời thơ ấu của nhà thơ đã trải qua trong bầu không khí tôn giáo và nghệ thuật, văn học, âm nhạc và hội họa. Là một tác giả, xu hướng cuộc sống của ông đã được suy ngẫm từ sớm. Ông được nuôi dưỡng và dạy bằng ba ngôn ngữ – tiếng Phạn, tiếng Bengal và tiếng Anh.

    Cuộc đời văn chương của Tagore trải dài hơn sáu mươi năm, và ông gợi nhớ đến Victor Hugo trong sự phong phú và đa dạng của tác phẩm: hơn một nghìn bài thơ; gần hai chục vở kịch và vở kịch nhỏ; tám tiểu thuyết; tám tập truyện ngắn trở lên; hơn hai nghìn bài hát, trong đó ông viết cả lời và nhạc; và một khối lượng lớn văn xuôi về các chủ đề văn học, xã hội, tôn giáo, chính trị và các chủ đề khác. Ngoài các bản dịch tiếng Anh của ông về một số tác phẩm văn học; các bức tranh của ông; các chuyến đi và chuyến thuyết trình của ông ở Châu Á, Châu Mỹ và Châu Âu; và các hoạt động của ông với tư cách là một nhà giáo dục, một nhà cải cách xã hội và tôn giáo, và một chính trị gia – và ở đó, chỉ xét về số lượng, chúng ta có tác phẩm cuộc đời của một Núm vú. Chỉ cần nói rằng thiên tài của ông không gì hơn là khả năng chịu đựng vô hạn công sức; nhưng hãy lưu ý đến yếu tố thép và bê tông đã tạo nên ông, và do đó loại bỏ huyền thoại, đã phát triển ở một số nơi trong những năm gần đây, về Tagore, nhà thơ hoa huệ nhạt của bàn tiệc của các quý cô.

    Năm 1901, ông thành lập trường Santiniketan tại Bolpur để phản đối hệ thống giáo dục tà ác hiện hành. Ngôi trường này đã thành công rực rỡ và làm thay đổi Viswabharati. Khi trở lại Anh vào năm 1911, ông mang theo cuốn Gitanjali của Anh, và việc xuất bản cuốn sách này vào năm 1912 cùng giải thưởng Nobel văn học vào năm sau đã khiến ông trở nên nổi tiếng thế giới. Đây là giải thưởng đầu tiên của giải thưởng này dành cho một người châu Á. Phần đời còn lại của Tagore diễn ra tại Santiniketan, ngoại trừ một số chuyến đi và chuyến thuyết trình mà ông đã mang thông điệp về sự thống nhất của con người đến tất cả các quốc gia quan trọng ở châu Á, châu Mỹ và châu Âu.

    Tagore là một người yêu nước tự hào và nhiệt thành. Giai đoạn hoạt động chính trị mãnh liệt nhất của ông là những năm sau năm 1905, khi phong trào phản đối việc phân chia Bengal đang ở đỉnh cao. Ông đã từ bỏ tước hiệp sĩ của mình vào năm 1919 để phản đối vụ việc Amritsar trong một lá thư gửi cho Phó vương, đây là một trong những văn kiện vĩ đại về tự do. Những bài thơ và bài hát yêu nước của ông, đặc biệt là bài hát sau, đã đi vào di sản chung của đất nước ông; bài hát “Bharata-bhagya-vidata” hiện được hát trên khắp Ấn Độ và “Amar sonar Bangla” ở Bangladesh như quốc ca. Về vấn đề này, tôi muốn thảo luận về một số cuốn sách của ông đã khơi dậy trong tôi niềm vui vô bờ bến về cuộc sống tinh thần cũng như văn hóa thực sự.

    HOIMONTI

    Đây là một truyện ngắn đáng chú ý, trong đó Tagore đã cố gắng phản ánh sự tương phản giữa hai gia đình gồm chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa hiện đại. Hoimonti được giáo dục trong hệ thống giáo dục hiện đại, nơi cha cô đã ảnh hưởng đến cô bằng kiến ​​thức, văn hóa, di sản và phương tiện phù hợp để trả đũa tình hình thực tế. Nhưng thật không may, cô đã kết hôn với Opu, một người con trai của một gia đình bảo thủ. Gia đình này tin vào mê tín và phong tục xã hội. Cha và mẹ của Opu có định kiến, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến Hoimonti. Cuối cùng, Hoimonti đã suy yếu và cha chồng cô đang tìm một cô dâu khác cho con trai mình.

    BOLAI

    Câu chuyện này kể về một cậu bé không có mẹ và được dì nuôi dưỡng. Cậu đã phát triển tính cách, khác với nhóm tuổi của mình. Cậu có một tình yêu đặc biệt đối với cây cối. Bolai sẽ không chấp nhận nếu ai đó nhổ bỏ bất kỳ cây cối nào. Cậu nghĩ rằng mỗi loài cây đều có một cuộc sống độc đáo mà không ai biết đến. Cậu đã thể hiện tất cả tình yêu và sự đồng cảm của mình ngay cả với cây mọc ở một nơi không phù hợp. Trong lần cuối cùng, cây mà cậu yêu thích nhất đã bị chặt hạ khi cha cậu đến Shimla để học lên cao hơn. Dì của Bolai đã bị sốc khi cây bị phá hủy, bà nghĩ rằng đó là hiện thân của Bolai.

    SHESHER KABITA

    Đây là một tiểu thuyết nổi tiếng do Tagore sáng tác. Nữ diễn viên trong truyện là Labonno và nam diễn viên là Amit. Sự tương phản và chuyện tình của họ đã được phản ánh theo một cách đáng kể. Cuốn sách có giá trị văn học lớn nhất trên thế giới. Tình yêu thực sự và chuyện tình với nền văn học thế giới cao cấp đã được phản ánh sống động ở đây, nơi hai tính cách khao khát muốn biết nhau nhất. Họ không tham lam, ghen tuông, ám chỉ và tính khí xấu và họ biết cách giải quyết xung đột xã hội và chỉ trích của những người chỉ trích xã hội.

    KABULIWALA

    Nhân vật chính của câu chuyện này là một cô gái tên là Mini và Rahmat, người Kabuliwala. Kabuliwala đến từ Afghanistan; anh ta bán đồ từ nhà này sang nhà khác. Một lần, cô được giới thiệu với Mini, một cô bé hay nói, năm tuổi. Người đàn ông đã để lại đứa con gái bằng tuổi Mini ở nhà. Mini và Kabuliwala đã phát triển một tình bạn rất tốt. Kabuliwala thường mang trái cây khô làm quà tặng cho Mini và tỏ ra kiên nhẫn lắng nghe Mini. Họ từng trêu nhau về chuyện “về nhà bố mẹ vợ”. Vì một lý do nào đó, người đàn ông phải vào tù tám năm. Sau khi ra tù, anh muốn gặp Mini. Nhưng lúc đó, lễ cưới của Mini đang diễn ra. Trong tám năm qua, cô đã quên mất người bạn Kabuliwala của mình. Cô không thân thiện như hồi nhỏ và cảm thấy ngại ngùng khi gặp anh. Kabuliwala có thể cảm nhận được khoảng cách thời gian đã trôi qua giữa họ và con gái mình.

    THƯ KÝ BƯU ĐIỆN

    Đây là một truyện ngắn của Rabindranath kể về một người quản lý bưu điện. Người quản lý bưu điện được chuyển đến một bưu điện làng ở Ấn Độ. Tại đây, anh gặp một cô gái tên là Ratan, người mà anh luôn trò chuyện hàng giờ liền. Một ngày nọ, người quản lý bưu điện bị ốm, Ratan đã chăm sóc anh và theo cách này, mối quan hệ thân thiết đã phát triển giữa họ. Khi người quản lý bưu điện được chuyển đến thị trấn một lần nữa, cô gái đã rất sốc và cô đã yêu cầu anh đưa cô đi cùng nhưng người quản lý bưu điện không thể đưa cô đi. Rattan sống trong nỗi đau tột cùng của ký ức đẹp đẽ đó; cô đã dành thời gian bên người quản lý bưu điện.

    Tôi thích cuốn sách của Rabindranath vì tôi học được nhiều điều về đất đai, con người và thiên nhiên. Chúng ta học về các vấn đề, tôn giáo, văn hóa và di sản của cuộc sống Bengal. Đôi khi, những cuốn sách của ông thực sự tạo ra sự hồi hộp, trực giác và sự phấn khích cho người đọc bằng cách phản ánh những xung đột xã hội và sự tương phản giữa những người bảo thủ và những người có học thức hiện đại. Hơn nữa, thơ của ông thấm nhuần vào cuộc sống thường nhật đã được chiêm nghiệm một cách sống động theo một cách có ý nghĩa, điều này làm rung động trái tim tôi rất nhiều.


    Source by Kh. Atiar Rahman


    Rabindranath Tagore – Nhà thơ của tình yêu và lòng nhân ái

    Rabindranath Tagore không chỉ là đại diện văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ, ông còn là nhà thơ châu Á đầu tiên được trao giải Nobel Văn học, là bậc kỳ tài đã để lại cho nhân loại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và phong phú…

    Sinh thời, cuối tập thơ “Người làm vườn” nhà thơ Tagore đã viết: “Hãy mở cửa và hãy nhìn ra ngoài/Bạn đọc ơi,/Bạn là ai,/mà sẽ đọc thơ tôi/một trăm năm sau nữa?” Nhưng không chỉ một trăm năm mà hàng trăm, thậm chí có thể cả nghìn năm nữa người ta sẽ còn đọc thơ ông.

    Nhà thơ yêu con người

    Rabindranath Tagore không chỉ là đại diện văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ, ông còn là nhà thơ châu Á đầu tiên được trao giải Nobel Văn học, là bậc kỳ tài đã để lại cho nhân loại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và phong phú.

    Rabindranath Tagore sinh ngày 7.5.1861 tại Kolkata, Ấn Độ. Ông được cả thế giới tôn vinh là một trong số ít nhân tài toàn diện của thế giới. Ông là nhà viết kịch, nhà thơ, nhạc sỹ, tiểu thuyết gia, nhà giáo dục, triết gia và nhà nhân văn học. Ông sáng tác vở kịch opera đầu tiên – Valmiki Pratibha – khi mới 20 tuổi. Ông sáng tác hơn 2.000 bài hát và sáng tạo nên Rabindra – sangeet – một thể loại âm nhạc Bengal quan trọng mang tên ông. Truyện ngắn và tiểu thuyết của ông giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Bengal. Và có lẽ ông là nhà thơ duy nhất trên thế giới đã sáng tác quốc ca cho cả hai nước: bài Amar Shonar Bangla cho Bangladesh và Jana Gana Mana cho Ấn Độ.

    Tuy nhiên, đóng góp xuất sắc nhất của Tagore vào sự phát triển của văn học Ấn Độ và thế giới là lĩnh vực thơ ca. Ông đã làm hơn 1.000 bài với 50 tập thơ, trong đó tập thơ “Lời dâng” (Gitanjali), một tuyển tập gồm những bài thơ về triết lý tôn giáo, được trao giải Nobel Văn học năm 1913. Với tập thơ này, ông được xem là một phát hiện của thơ ca thế kỷ, “một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh túy Á – Âu”, là “kỳ công thứ hai của tạo hóa sau Kalidasa” – nhà thơ lớn của Ấn Độ thế kỷ thứ V, trong văn học Ấn Độ.

    Đối với nhiều nhà thơ Anh lúc bấy giờ, khi đọc tập thơ “Lời dâng” của Tagore, họ vô cùng kinh ngạc. Trong tập thơ, Tagore ca ngợi chúa trời nhưng đấy là chúa đời, chúa của con người, chúa của cái đẹp, chúa nằm trong từng con người bình thường. Tập thơ được đánh giá rất cao và chính các nhà thơ Anh nói rằng, hàng nghìn năm mới sinh ra một con người như vậy.

    Ngoài tập thơ “Lời dâng”, Tagore còn có rất nhiều tập thơ khác có giá trị như tập thơ trữ tình “Balaca” (năm 1915), “Mùa hái quả” (năm 1915), “Thơ ngắn” (năm 1922), “Mơhua” (năm 1928) và “Ngày sinh” (năm 1941)…

    Tagore đem đến cho thi ca Ấn Độ một không khí thanh sảng, thiêng liêng mà gần gũi, thân tình; biểu đạt những rung động tinh tế trong tâm hồn thi sĩ trước đất nước, quê hương, thiên nhiên, cuộc sống, con người và tình yêu bằng một giọng điệu nồng nàn, tha thiết. Mặt khác, thơ Tagore cũng chứa đựng những triết lý thâm trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống, hạnh phúc và tình yêu. Chất trữ tình – triết lí hòa quyện khó mà phân cắt trong một bài thơ của Tagore.

    Điểm nổi bật thấm đẫm chất văn trong tư tưởng của Tagore chính là thái độ đề cao con người, phủ nhận thần thánh. Triết học của Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng là tình yêu thương mãnh liệt đối với con người.

    Tagore phản ánh cuộc sống khốn cùng của những người dân nô lệ với niềm cảm thông sâu sắc, đồng thời lên tiếng đấu tranh đòi tự do và cuộc sống hạnh phúc cho con người: “Hỡi các dân tộc trẻ/Hãy tuyên chiến vì tự do”.

    Tagore đã từng nói, trong cuộc đời ông có 3 thứ phải theo: “Thứ nhất, tôi là người Ấn Độ, tôi theo sự thật; cái gì là sự thật, là chân lý đấy là ông chủ của tôi. Thứ hai, tôi là nhà thơ thì phải yêu cái đẹp; người phụ nữ Ấn Độ, phong cảnh Ấn Độ, tâm hồn người Ấn Độ quá đẹp nên không thể không yêu. Thứ ba, là cái thiện, nếu thiếu cái thiện, ta không phải là con người”.

    Có thể nói, với Tagore, vườn đời thật tươi đẹp, được sống trên đời thực sự là niềm vui khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên.

    Nhà thơ tình

    Tagore còn được nhắc đến như một nhà thơ tình nổi tiếng thế giới. Nhiều tập thơ của ông xoay quanh đề tài tình yêu: “Người làm vườn” (năm 1914), “Tặng phẩm của người yêu” (năm 1918).

    Thơ số 28 được in trong tập “Người làm vườn”, là một trong những bài thơ tình hay nhất thế giới. Bài thơ khẳng định: tình yêu là sự đồng điệu, hòa hợp, dâng hiến tâm hồn, chia sẻ lẫn nhau. Nhưng trái tim con người, thế giới tâm hồn con người lại mãi là một cõi bí mật lớn lao.

    Vậy tại sao người ta lại ca ngợi thơ tình Tagore? Có thể lý giải được ba điều. Điều thứ nhất, ông nói được điều cốt tử nhất – vừa vui lại vừa buồn – có nghĩa là hai người tình nhân dù yêu nhau đến mấy cũng không bao giờ hiểu nhau cả. Thứ hai là, thơ của Tagore rất đề cao người phụ nữ. Hình ảnh người phụ nữ bao giờ cũng tượng trưng cho sự hy sinh, cho sự đẹp đẽ, thầm lặng. Thứ ba là, thơ Tagore vừa ảo, vừa thực. Trong ca ngợi tình yêu ông đã vũ trụ hóa toàn bộ thơ tình của mình. Vì thế khi so sánh người yêu thì ông so sánh “mắt em như sao buổi sớm”, hay “trái tim em ôm tới cả đất trời”.

    Tagore qua đời tại Calcutta vào đúng năm ông tròn 80 tuổi, để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ gồm trên một nghìn bài thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, bút ký, tiểu luận cùng hàng ngàn bức vẽ và bài hát…

    Thơ của Tagore giàu tinh thần nhân loại, là gạch nối giữa truyền thống văn hóa Ấn Độ và văn hóa hiện đại phương Tây. Sáng tác và hoạt động của Tagore có tác dụng rất lớn đến sự nghiệp giải phóng dân tộc Ấn. Lãnh tụ phong trào giải phóng Ấn Độ Mahatma Gandhi đã gọi ông vừa là “người thầy học vĩ đại”, vừa là “người lính gác vĩ đại” của Ấn Độ.

    DIỆP NINH


    QUI ĐỊNH
    GIẢI DIỄN ĐÀN THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    www.thotanhinhthucviet.vn


    Giải Diễn đàn thơ Tân hình thức Việt được trao tặng cho những bài thơ do các thành viên tham gia sáng tác trong mục “Thơ Sáng Tác”. Những sáng tác của những thành trong Ban quản trị và Ban biên tập không được xét để trao giải thưởng.

    Giống như những giải thơ trước kia, giải thơ không thể chỉ là 1 bài thơ, mà là một tập thơ (trong giải Diễn đàn hạn chế lại chỉ còn 1 chùm thơ, từ 5 tới 10 bài trở lên). Không có giải thơ nào trao cho 1 bài thơ, vì như thế sẽ không đúng tiêu chuẩn của giải thơ.

    Ban biên tập chọn những bài thơ hay trong tuần đưa vào hồ sơ thơ của từng tác giả, trong “Thơ do ban biên tập chọn” (có tuần không có).

    Đến cuối năm, sẽ chọn một chùm thơ của một tác giả để trao giải. Thời hạn từ 1 tháng 1 tới 31 tháng 12 trong năm. Giải thưởng sẽ được công bố vào tháng 1 năm tới.

    Những thành viên có thể tham gia vào trong việc tuyển chọn bằng cách vào đọc những hồ sơ thơ của những tác giả và đóng góp ý kiến của mình (comments). Ban Biên Tập sau khi quyết định tác giả trúng giải, sẽ đề cử một thành viên trong Ban Biên tập phát biểu quan điểm.

    Thơ Tân hình thức có những tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng, đó là những bài thơ có nhịp điệu (rhythm) độc đáo và lôi cuốn, cùng những ý tửơng trẻ trung, mới lạ, thể hiện đựơc những sinh động trong đời sống chung quanh. Vì thế, giải Diễn đàn thơ Tân hình thức Việt xét duyệt, dựa trên căn bản giá trị và luật tắc của dòng thơ này: Ý tưởng có thể làm cái tầm thường trở thành mê hoặc (Guillaume Apolinaire). Và kỹ thuật lập lại phải có tác dụng làm thành nhịp điệu thơ.

    Những tác giả đã từng nhận giải thơ Tân hình thức: Nguyễn Tất Độ (2007), Biển Bắc (2007), Giảng Anh Iên (2008). Nếu tính thêm giải do Tạp chí Sông Hương trao cho nhà thơ Hường Thanh, thì cho tới nay đã có 4 nhà thơ có những chùm thơ nhận được giải thơ này.

    Giải thơ được trao với hiện kim 5 triệu tiền Việt Nam cho một giải duy nhất.

    Giải thơ dự trù hàng năm, nhưng chỉ có thể bắt đầu khi Ban Điều Hành và Ban Biên Tập nhận thấy có nhiều thành viên tham gia sáng tác và chất lượng thơ đủ để xét trao giải. Quyết định trao giải sẽ được thông báo trong mục “Giải thưởng thơ”.

    Thơ Tân hình thức Việt là một dòng thơ mới, vì vậy, để giúp cho các thành viên thuận lợi hơn trong việc sáng tác, đây là một vài góp ý:

    “Trước khi sáng tác, phải chọn chủ để bài thơ, sau đó qua chủ đề (theme) chúng ta chọn giọng thơ (tone) cho phù hợp với chủ đề. Giọng bài thơ là cảm xúc biểu lộ của tác giả qua chủ đề bài thơ, còn tâm trạng (mood) là cảm xúc người đọc tiếp nhận qua giọng của bài thơ.

    Ý tưởng đưa tới phương cách tìm kiếm chủ đề sáng tác Nhịp điệu đưa tới cách làm thơ.

    Tìm kiếm chủ đề: Thơ Tân hình thức Việt đi vào đời sống, vì vậy cách tìm chủ đề sáng tác dựa vào mọi nguồn kiến thức. Với phương tiện google, nhà thơ dùng những chữ, nhóm chữ, mệnh đềcâu, liên hệ tới chủ đề và tình tiết bài thơ, để tìm kiếm những tài liệu nghiên cứu, những câu truyện có thực trong đời sống, qua những bản tin, phóng sự, video trên internet.

    Cách làm thơ: “Thơ tự do viết và sửa đi sửa lại trên trang giấy (đa số những nhà thơ tự do nổi tiếng, đều sửa lại thơ họ). Còn thơ Tân hình thức, người làm thơ đọc thầm trong đầu, phối hợp những âm thanh bằng trắc và những chữ lập lại trong bài thơ, để tạo thành nhịp điệu.” Vì vậy, phải theo đúng cách sáng tác thơ Tân hình thức, tuyệt đối không viết một đọan văn xuôi trên giấy, đếm chữ xuống dòng, mà chỉ ghi lại khi bài thơ đã xong (để hiệu đính và tiếp tục hoàn chỉnh), hoặc ghi xuống từng câu để khỏi quên, trước khi tiếp tục những câu thơ khác. Vì tiến trình làm thơ Tân hình thức là đọc thầm trong đầu, chứ không phải dựa vào cây viết và tờ  giấy. Hơn nữa, kỹ thuật lập lại của thơ Tân hình thức Việt phải nương theo giọng bài thơ, mới tạo ra được nhịp điệu tự nhiên (hay giọng điệu), và mỗi bài thơ có những giọng điệu khác nhau. Có như thế, chúng ta mới nối kết những câu thơ với nhau bằng hơi thơ, nhịp điệu mới gắn bó tự nhiên với ý tưởng.


    Tác phẩm xin đồng gửi về tapchitho2022@gmail.com | thotanhinhthuc@gmail.com | info@thotanhinhthucviet.vn | tốt nhất có thể đăng ký và đăng bài lên trang diễn đàn 


    Bài đọc tham khảo

    MỘT VÀI KHÁI NIỆM VỀ THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    CHÙM THƠ ĐẠT GIẢI THƠ TÂN HÌNH THỨC 2007

    SÁNG TÁC THEO CÁCH LÀM THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    ĐỌC – DIỄN THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    ĐỌC THƠ DIỄN ĐÀN: Kỳ 1

    BƯỚC ĐI / VÀO THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    TÂM –/CẢM THỨC THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    Thể lệ Cuộc thi thơ Tân hình thức

    và các bài tiểu luận sách báo khác – xin chân thành cảm ơn đóng góp của quý đọc giả./.

    BÙI CHÁT : THƠ VÀ HỌA

    Nguyễn Lương Ba

    BÙI CHÁT : THƠ

    Trong một bài diễn thuyết nhan đề là :”Nguồn gốc tác phẩm nghệ thuật” đọc ở Francfort tháng chạp 1936. Heidegger đặt vấn đề tại sao có nghệ thuật, hoặc rõ rệt hơn tại sao có tác phẩm nghệ thuật , vì hỏi tại sao có nghệ thuật người ta có thể hiểu như là tra hỏi về một cái gì có thể có như một lý tưởng, không phải là thực tại đang có. Vì thế phải hỏi: tại sao thực sự chúng ta có những tác phẩm nghệ thuật . Có phải vì có nghệ sĩ mà có tác phẩm, cũng như vì có thợ đóng giày mà có giày dép không, hay là vì chúng ta cần có giày dép như một nhu cầu mà có giày, và do đó có thợ đóng giày, cũng như vì chúng ta cần nghệ thuật như một nhu cầu mà có tác phẩm nghệ thuật và có nghệ sĩ.
     
     
    Như vậy nghệ thuật là một đòi hỏi căn bản của con người , nó biểu lộ một dự phóng ở đời của con người và dự phóng đó thường dựa trên một nền tảng tổng hợp cấu tạo nên cuộc đời của một cộng đồng tập thể. Ví dụ đây là một ngôi chùa .Trước hết ngôi chùa tượng trưng cho một niềm tin tôn giáo của con người, nó gắn liền mọi khía cạnh liên đới giữa con người với con người ,chia sẽ quan niệm về thờ cúng, sự sống, sự chết cũng như bày tỏ niềm hân hoan, an lạc hạnh phúc có được trong cuộc đời này Nhưng cuộc đời đó chỉ có thể bày tỏ trên một nền tảng hài hòa của thiên nhiên như ngôi chùa đã nói phải được dựng xây trong một bối cảnh đất trời nào đó nào là dòng sông uốn quanh phía trước đến cổng tam quan dẫn vào một khoảnh đất trống lát đá sỏi, hai bên là những hàng cây phủ rạp bóng mát. Phía bên trái là cái tháp chuông Đại Hồng Chung được đúc từ thời vua Thiệu Trị, phía bên mặt là một tấm bia cao cả một mét viết bằng chữ Hán ghi lịch sử của ngôi chùa, ghi nhớ công đức của các vị đã sáng lập nên ngôi chùa. Kế đến là những bức tượng của các vị thần La Hán , các bức tượng Phật hai bên dẫn vào Chánh Điện . bên trong có những bức tranh vẽ Đức Phật từ lúc đi tu cho đến khi nhập Niết Ban.. Nói cách khác tất cả những rung động của ta về những hình ảnh, những xúc cảm về ngôi chùa đều được xây dựng trên một nền tảng nguyên ủy mà Heldegger gọi là Trái Đất (die Erde ). Khi xây dựng tác phẩm, người nghệ sĩ chỉ là bày tỏ, thể hiện những khuôn mặt của trái đất.
     
     
    Với những đặc tính như là cổng tam quan, các bức tượng La Hán, các tượng Phật và những bức họa bên trong ngôi chùa…đều là những yếu tố cấu tạo nên tác phẩm cũng là những đặc tính của trái đất bởi thế ta mới hiểu được nghệ thuật như một biểu lộ , có thể bày tỏ mà chính nó không bày tỏ ..
     
     
     
    Nghệ thuật là nền tảng, mặc khải những chân lý về cuộc đời thì nghệ thuật tất yếu đều có tính cách thi ca (tout art poétique ) có tiếng nói của chính thi ca và cũng có những tiếng nói im lặng, âm thầm như trong hội họa, điêu khắc, những chạm khắc các bức tượng, các tranh vẽ trong Chùa cũng đều bày tỏ , biểu lộ cũng là một thứ tiếng nói nhưng là tiếng nói của im lặng.
     
     
     
    Khi nói về thơ thì nó hoàn toàn là ngôn ngữ thuần tuý, chỉ ngôn ngữ thuần tuý. Hegel còn cho rằng ngôn ngữ là hủy thể tính có nghĩa khi nói ra một sự vật gì thì sự vật đó bị triệt tiêu, lu mờ ngay bởi vì ngôn ngữ nói ra một điều nhưng cũng chẳng nói được gì vì ngôn ngữ không bao giờ nói hết. Ngôn ngữ là một ngỏ cụt. Nhưng vượt lên những suy nghĩ tiêu cực, ngôn ngữ là một đặc ân của con người , lời nói là nói lên, kêu tên sự vật và biểu lộ cách thế ở đời của con người.
     

     
    Nói về thơ của Bùi Chát là nói về ngôn ngữ. Ngôn ngữ này đến từ cái nhìn. Nếu định nghĩa người với người là một tương quan bạo động vì không ai muốn mình bị áp bức. Sartre nói:” Cuộc đời người khác là sự đe dọa của tôi ” (Ma chute originell, c’est l’existence de l’autre ) bởi vì tự do của người khác sẽ đối chọi với tự do của tôi :

    Ở trạng thái này hắn làm sao

    để giấu. Bỏ bàn tay sau lưng

    ngay túi áo, trong hộc tủ. Tay

    phải cầm tay trái, hoặc ngược lại

    Rồi giấu cả hai tay, bằng cách

    cùng nắm chắc một vật cố định

    tư thế lao về trước. Lộn người

    để bung ra như búp bê tháo

    mình bởi ngoại lực thế là đủ

    Để an tâm vấn đề này (nọ)

    Hắn nghĩ. Nếu ném đá chỉ để

    giấu tay, hoặc giấu tay mà tiếp

    tục ném đá. Thì tốt hơn (thua)

    hãy quay về biển để làm gì

    Nhiều cô gái đang bơi ngửa lưng

    Hắn ném cái nhìn vào lưng những

    cô gái, phải giấu gì của mình

    bây giờ . Đang băn khoăn về mô

    típ này hắn thấy một động vật

    (và) bị giam cầm (cập) đang cố

    gắng vượt rào trước mắt mọi người

    Hắn xuống tàu & vội vã ra khơi.

     
    (Búi Chát: Giếm)
     
    Thật ra Bùi Chát sáng tác với nhiều thể loại . .Đầu những năm 2000, anh cùng một nhóm bạn thơ lập nhóm Mở Miệng ( Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán…) có khuynh hướng đối kháng với những bất công xã hội . với cuộc đời và với chính mình như là thận phận của con người vì ta không thể tránh được việc luôn luôn phải xác định thái độ trong mọi hành động Đó là con đường của nhận thức và là một tình cảm luân lý. Đặt ngược vấn đề như cụ Trần Tế Xương đã than:
     

    Thiên hạ có khi đang ngủ cả

    Tội gì mà thức một mình ta

     
    Câu thơ cảnh tỉnh như một tấn tuồng hồi tưởng cho các sĩ phu thời bấy giờ và như đã biết những bài thơ của Mở Miệng trong thời gian này đã được viết thành luận án cấp Đại Học (biên soạn bởi nhà văn Nhã Thuyên )
     
    Nhưng mặt khác thơ Bùi Chát trong một lúc nhận ra rằng cuộc đời này chỉ là sự ra đi, như một kẻ bỏ nhà lang thang nghĩa là sống trong hoài niệm. Hoài niệm về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa, về cái tôi cô đơn, luôn luôn bị ám ảnh là chỉ có một mình. Con người cô đơn là linh hồn của trường phái lãng mạn:
     

    ” Nằm đêm anh cứ thương em

    Rơi nghiên nước mắt một bên gối nằm

    Thế này cho hết trăm năm

    Đến muôn năm vẫn âm thầm thương em”

     
    ( Xuân Diệu )
     
    Con người thiết yếu tương quan với mọi người. Trong cô đơn không có tương quan đó nên con người cô đơn luôn luôn muốn vượt thoát mình để tìm đến tha nhân. Đó là điều hết sức bi đát( La solitude est tragique). Con người không muốn ở trong cô đơn nên luôn muốn phá vỡ nó bằng cách tìm đến những mối thông cảm, tìm một tương giao với ngoại cảnh và sự vật:
     

    “Tôi muốn tắt nắng đi

    Cho màu đừng nhạt mất

    Tôi muốn buộc gió lại

    Cho hương đừng bay đi”

     
    (Xuân Diệu)
     
    hay như thơ của Đinh Hùng:

    Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?

    Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?

    Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy

    Ta muốn vào thăm nắm mộ sâu.

    Và thơ của Mai Thảo, một ngày buồn một mình uống rượu:

    Ngồi tượng hình riêng một góc quầy

    Tiếng người: kia, uống cái chi đây?

    Uống ư? một ngụm chiều rơi lệ

    Và một bình đêm rót rất đầy

     
    Nhưng những ngày tháng ở đời như thế sẽ đưa đẩy nghệ thuật như là phương tiện cứu rỗi để phục hồi cuộc sống an nhiên, hạnh phúc và như Camus trở về với đời , lòng vẫn đầy mơ ước, khi biết thức tỉnh, phản kháng, tình cảnh lưu đày trong phận làm người;
     

    Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao

    Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng vẻ

    Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tỉnh lặng

    Chẳng chịu cho lòng ta yên ổn

    Anh mãi mê về một màu mây xa xôi

    Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ thó

    Về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa

    Em hát một câu thơ cũ sì

    Cái say mê của thời thiếu nữ

    Mỗi mùa hoa đỏ về quê

    Hoa như mưa rơi rơi rụng

    Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi đẹp

    Như máu ứa một thời trai trẻ trung

    Hoa như mưa rơi rơi rơi

    Như tháng ngày xưa ta khờ khạo

    Ta nhìn vào tận sâu mắt nhau

    Mà thấy lòng đau xót xa

    Trong câu thơ của em nhỏ

    Anh không có mặt mẹt

    Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết

    Anh đâu buồn mà chỉ tiếc rẽ

    Em không đi hết những ngày đắm say sưa

    Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ trai

    Hoa đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ chói

    Như vết xướt của trái tim gan

    Sau bài hát rồi em lặng im

    Cái lặng im rực màu hoa đỏ ối

    Anh biết mình vô nghĩa đi bên em

    Sau bài hát rồi em như thể dục

    Em của thời hoa đỏ ngày xưa kia

    Sau bài hát rồi anh cùng thế giới

    Anh của thời trai trẻ ngày xưa đó.

     
    (Bùi Chát: Màu hoa đỏ lè)
     
    Và rồi thì tình yêu thương con người là đáng quý nhất bao hàm một quan niệm biết thông cảm. Sự đau khổ vẫn là của riêng mình, không thể nào chia xẻ cho người khác nhưng tình cảm an ủi, thấu hiểu cần thiết của một người bạn người tình sẽ giúp cho khả năng chịu đựng sự cô độc vơi đi với người em thương nhớ vì không ai có thể trách nhiệm cuộc đời người khác:
     

    Hôm qua em đi tỉnh về

    Đợi em ở mãi con đê đầu làng

    Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng

    Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi

    Nào đâu cái yếm lụa sồi

    Cái dây lưng dúi nhuộm hồi sang xuân

    Nào đâu cái áo tứ thân

    Cái khăn mỏ qụa cái quần nãi đen

    Nói ra sợ mất lòng em

    Van em em hãy giữ nguyên quê mùa

    Như hôm em đi lễ chùa

    Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng nhau

    Hoa cau nở giữa vườn cau

    Thầy u mình có cái đầu chân quê

     
    (Bùi Chát: An toàn là bạn mà)
     

    BÙI CHÁT : HỌA

    Bùi Chát đã chuyển qua vẽ tranh cả mười năm nay .Anh tự học, nghiên cứu và triển lãm tranh . Được rất nhiều bạn bè đến ủng hộ. Ở đây tôi chỉ trích dẫn các ý kiến về hội họa của các họa sĩ lừng nổi tiếng một thời :.Vì thật sự tôi chỉ biết xem tranh, theo sở thích của mình , rất hạn chế về kiến thức cũng như am hiểu về vẻ đẹp của các trường phái hội họa. Vì thế chiêm nghiệm các kinh nghiệm của các họa sĩ tiền bối cũng đáng để cho chúng ta học hỏi( Những ý kiến này được trích trong báo Văn số 93 năm 1967 ( chuyên đề về hội họa,) xuất bản tại Sài Gòn.
    Họa sĩ Thái Tuấn :

    “Đứng trước cảnh trí thiên nhiên, sự lựa chọn giữa cái đẹp và cái xấu do từ một rung cảm thuần khiết chân thành. Song nếu nguồn mỹ cảm bản năng đã giúp cho con người hưởng thụ những vẽ đẹp thiên nhiên thì ngược lại khó có thể giúp cho ta hưởng thụ trọn vẹn một công trình nghệ thuật . Những nghiên cứu về tâm lý và về hình học đã cho biết ý thức thẩm mỹ của con người dần dần phát triển qua bao nhiêu thế hệ với nhiều đổi thay để trở nên tế nhị và cũng phức tạp hơn do hoàn cảnh và ảnh hưởng đời sống.

    Từ cảnh trí ở ngoài thiên nhiên đến phong cảnh trong bức hoạ, sự vật đã biến dạng để trở thành chất liệu cho người sáng tác. Hình nét trong tranh này có thể từ sự vãt mà đến nhưng không còn là sự vật và thuộc về sự vật nhìn thấy Màu tóc này là ánh mây muôn màu rực rỡ nhưng cũng là mái tóc ai sầu muộn.. Ánh sáng này của ngày hôm nay nhìn thấy nhưng cũng là của ngày hom6 qua hồi tưởng và ngày mai ước vọng…”


    Tranh 2024, sơn dầu, oistick trên canvas, 115x160cm.
    Tranh 2024, sơn dầu, oistick trên canvas, 115x160cm.
    Hoạ sĩ Nguyễn Đồng:

    “Cũng như âm nhạc, tác phẩm hội họa có tác động thẳng đối với tâm hồn thưởng ngoạn bằng ngôn ngữ trực tiếp của nó là màu sắc và hình thể. Mỗi màu sắc chỉ riêng một ấn tượng . Thí dụ: vàng: nóng, bực tức, màu ấy gợi nhớ đất. lam: gợi bầu trời, màu thanh thản, trong, trang nghiêm, lạnh- đỏ nồng nàn, đam mê, mạnh bạo- xanh tĩnh, thụ động, trung hòa- trắng và đen: thì cũng là im lặng nhưng im lặng ở trắng tiềm tàng sức mạnh. Hình ảnh cũng là những ký hiệu thị giác . Nhiều hình thể có thể có những tác dụng rõ ràng riêng biệt có hương thơm tinh thần riêng. Góc nhọn tam giác tương ứng ý nghĩa màu vàng, tương ứng với màu đỏ là góc vuông và hình vuông, . Những đường nét cũng vậy không phải chỉ để xác định hình thể hay chỉ trình bày chuyện động, chúng có thể diễn tả những chiều hường toát ra, sự nẩy mầm của những sức lực tự nhiên..”


    34x44cm
Sơn dầu, oilstick trên canvas
2022
    34x44cm Sơn dầu, oilstick trên canvas 2022
    Họa sĩ Ngọc Dũng:

    Người thưởng ngoạn đừng bao giờ tìm công dụng của đồ vật trong tranh. Cái ghế trong hội họa không để ngồi. Cái cây không để che bóng mát. Và người đàn bà trong tranh cũng không để ôm ấp, sờ mó. Còn sự bắt gặp giữa người sáng tác và người thưởng ngoạn, theo tôi là một điều hết sức khó khăn. Người thưởng ngoạn thường đòi hỏi một cách khó tính. Phải nhớ rằng người sáng tác chỉ phát lên một tiếng kêu. Tiếng kêu ấy có thể hiểu ở mỗi người một cách khác. (tạp chí Sáng Tạo bộ mới só 3-09/1970)


    45x55cm
Sơn dầu trên canvas
2022
    45x55cm Sơn dầu trên canvas 2022
    Họa sĩ Duy Thanh :
     

    Trước một tác phẩm hội họa người thưởng ngoạn không phải chỉ cốt nhìn xem trong ấy có những hình thù gì để có thể tự cho là hiểu thấu bức tranh này bức tranh nọ. Tôi cho điểm chính là cần phải nhìn được cái tâm tư tác giả qua toàn thể bức tranh. Điều ấy nó hiển hiện qua nét bút hoặc màu sắc hoặc lối diễn tả. Đề tài theo ý tôi là điều phụ thuộc. Một bức tranh có thể không nói gì hết ở đề tài nhưng điều quan trọng là ở chỗ khác, chính là bức tranh ấy đã tự nói đầy đủ tiếng nói của nó rồi. Tác giả không cần phải giải thích hộ bức tranh bằng lời nữa. Không cần phải nói rằng tôi vẽ bức tranh này nhân khi xúc động trước một buổi chiểu vàng, cái màu xanh màu đỏ đặt như thế này cốt để diễn tả tư tưởng này nọ. Giải thích hộ tác phẩm mình là một họa sĩ hạng bét. Tác phẩm sẽ vô giá trị khi tự nó không nói gì hết, tự nó không đứng vững nổi trong cuộc sống. Nói gần hơn nếu tự nó không đứng vững trên một bức tường.

     
    (.tạp chí Sáng Tạo bộ mới số 3(09/1970)
    XIN CHÀO CÁM ƠN MOI NGƯỜI ĐÃ ĐỌC
    46,5x56,5cm
Sơn dầu trên canvas
2022
    46,5×56,5cm Sơn dầu trên canvas 2022