MỘT VÀI KHÁI NIỆM VỀ THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    Nối kết giữa truyền thống với hiện đại, nối kết giữa thế hệ này với thế hệ đến sau. Cuối cùng cũng là khát vọng văn hóa của mỗi con người.

    MỘT VÀI KHÁI NIỆM VỀ THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

    Nguyễn Lương Ba


    1. TÍNH TRUYỆN VÀ TÍNH KHÁCH QUAN
    VớI thơ Tân hình thức, tính khách quan nằm trong tính truyện. Tính truyện đã trở thành bao quát trong mọi hình thức của thơ cận đại, trở thành cách biểu lộ tâm tình qua chính câu chuyện mà nhà thơ đã kể. Do xử dụng ngôn ngữ hằng ngày (đời thưởng) khi chuyển vào thơ, bài thơ trở nên phổ cập hơn. Cũng vậy, xin dẫn chứng một bài thơ của Nguyễn thị Ngọc Nhung qua câu chuyện của nhà thơ:
    N Ử A Đ Ê M
    Nửa đêm thức dậy mặc quần áo đi
    chợ. Những trái táo dỏ xanh vàng ngay
    hàng thẳng lối dưới ánh đèn trắng. Những
    rau tươi mát mắt. Những hộp trái
    cây, hộp xúp nhẵn hiệu đủ màu. Những
    chai rượu trắng đỏ. Bia lon bia chai.
    lớn nhỏ. Lổn nhổn. Những vĩ thịt bọc
    giấy trong. Những khứa cá vuông vắn. Phô
    mai cứng mềm, có mùi, không mùi. Những
    chai thuốc tẩy. Làm sạch bồn cầu. Lọc
    nước trong veo. Kem đủ loại đủ màu
    đủ mùi. Đường, bột màu va ni, trứng
    gà. Kẹo chua kẹo ngọt. Bánh trong hộp
    trong bao. Bánh mì loại mềm, loại bột
    chua, loại Ý loại Pháp, ổ tròn ổ
    dài. Kẹp tóc. Xà bông gội đầu. Kem
    dưỡng da. Viết chì kẻ mắt xanh nâu
    đen. Thuốc ho thuốc cảm thuốc nhức đầu
    Nửa đêm tôi mua một hộp tampons.
    Bài thơ mang một bố cục rất mới, mô tả quang cảnh trong chợ hết sức bình thường. Bài thơ nói lên điều gì ? Đó là đời sống của nhà thơ với những thiết thân gắn bó, đơn giản mà quan trọng, tự nhiên mà đam mê, cái thú đi chợ. Mà chỉ với thơ THT, nhà thơ mới diễn tả được dễ dàng như thế.
    Có câu hỏi: Lời thơ mang tính khách quan vô hồn, không giải thích, không bút pháp đặc biệt chẳng khác gì lời văn của Alain Robbe-Grillet. Chính cái không giải thích này có thể làm cho bài thơ khó hiểu trái với kỳ vọng về một bài thơ trong sáng…
    Cái khó hiểu trong tiểu thuyết của nhà văn A.R.Grillet chính là phải định nghĩa lại sự liên hệ giữa con người và thế giới xung quanh. Nhắc đến nhà văn A.R.Grillet thiết tưởng cũng cần biết thêm về nhà văn này.
    Alain Robbe Grillet sinh năm 1922 ở Brest, vùng tây bắc nước Pháp. Ông cùng với một số nhà văn khác như: Claude Simon. Natalie Sarraute, Michel Butor, Marguerite Duras, Jacques Derrida và Pierre Bourdieu lập nên Phong trào Tiểu Thuyết Mới (Nouveau Roman) trong nền văn chương Pháp của thập niên 1950-60.
    Robbe-Grillet cho rằng thể loại tiểu thuyết trong quá khứ chỉ là bản sao chụp lại những kinh nghiệm của mình và của thế giới chung quanh. Tiểu thuyết cổ điển luôn luôn khảo sát sự kiện trong một thứ thời gian liên tục, tuần tự và cứ như một đường thẳng, như thế mọi diễn biến, mọi lời đối thoại chỉ là phản ảnh cái cách nhìn giữa vật thể và chủ thể, cứ thế sao chụp lại, chồng chất lên nhau cho đến hết câu chuyện.
    Theo ông phải tìm cách định nghĩa lại sự liên hệ giữa con người và thế giới xung quanh. Thế giới không phải tự nó có như một thực tại toàn thể và hoàn tất. Phải đập bể thực tại để tìm ý nghĩa. Vì thế qua tiểu thuyết mới, vật thể bao giờ cũng có một quá trình (background) của nó và câu chuyện do đó không thể nào chấm dứt được. Lúc chấm dứt câu chuyện cũng chính là lúc bắt đầu…

    Truyện của ông mang đầy tính triết lý và rất lôi cuốn đối với người đọc. Trước 1975, ở miền Nam có một số nhà văn như: Nguyễn Nghiệp Nhượng, Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Huỳnh Phan Anh… đi theo trường phái này tạo nên một không khí văn chương sôi động của thập niên 60 không kém gì phong trào thơ tự do cũng ở cùng thời điểm đó.


    2. TÍNH NHẠC
    Thơ Tân Hình Thức có giống lời ca Vọng Cổ không?
    Nhà thơ Khế Iêm viết trong tiểu luận Tân hình thức và quan điểm thẩm mỹ mới: “Để cụ thể hóa, chúng ta thấy vọng cổ khi dùng những câu nói đời thường phổ vào âm luật, khi ca lên trở thành lời ca tiếng nhạc, không còn là những câu nói đời thường nữa. Như vậy khi áp dụng thi pháp đời thường có nghĩa là đưa những câu nói đởi thường vào thơ để trở thành thơ, phải dựa theo luật tắt của thơ và đó là ý nghĩa của thơ Tân hình thức.”.
    Còn thế nào là nhạc Rap ?
    Nhạc Rap bắt đầu xuất hiện từ năm 1970. Đầu tiên nhạc Rap là sự kết hợp giữa thơ và nhạc xuất phát từ chủ nghĩa Dân Tộc của người Da Đen (Black Nationalism). Nhạc Rap ảnh hưởng mạnh mẽ trong cộng đồng người da đen tạI Mỹ. Nó mang ý nghĩa cực kỳ vĩ đại nuôi dưỡng tinh thần văn hóa của cộng đồng da đen nhất là ở giới trẻ. Nó được đánh giá vĩ đại hơn cả thời kỳ nhạc Jazz. Nhạc Rap rất cần đến nhạc tính của thơ, đồng thời thơ với những khía cạnh đặt biệt của nó lại cần đến nhạc cụ, đặt biệt là trống để trọn vẹn diễn tả được phong tục của người da đen như nhảy múa, uốn éo, vặn vẹo, chỉ chỏ, đề kháng mang tính khai phá và sáng tạo của người da đen. Khi hát thì nói ngắn lại (syncopation), luôn tỏ ý muốn ôm vào (embrace) thân ái với mọi người, biểu lộ như là truyền thống của người da đen.
    Có một số bài thơ Tân hình thức mang âm hưởng của nhạc Rap do ở thể nói và cách vắt dòng không ngừng lại ở cuối câu. Tùy theo sáng tác của nhà thơ, bài thơ mang âm hưởng nhạc Rap là hoàn toàn tự nhiên.
    Có thể đọc bài Chơi Khôn của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường như sau:
    C H Ơ I K H Ô N
    làm bộ mày là tao và
    tao là tao như thế để tao được
    hai tao làm bộ mày là
    tao là mày và tao là mày là
    tao như vậy sẽ có ba
    tao với ba mày đều là tao cả
    thôi mày đừng thút thít khóc
    nữa tao không xúi mày chơi dại không
    bắt mày làm bậy hổng thèm
    ỷ lớn chơi khôn ăn hiếp mày hoài
    tụI mình hãy làm tao là
    mày mày là tao để mày với tao
    tuy hai mà một tao với
    mày tuy một mà hai và giả bộ
    như trời đổ mưa phùn trên
    con lộ vắng lúc này đặng tao ôm
    mày đứng núp dưới gốc cây.
    Hoặc đoạn thơ sau đây:
    LÁ THƯ KHÔNG GỬI (trích)
    tôi nằm dướI hố. Đạn bay mù
    trời. Một vùng thật xa. Phèn chua
    nước mặn. Năm căn Cái nước. Rừng
    đước rừng tràm. Tôi về Cà Mau
    tôi lên Sóc Trăng. Tôi qua Rạch
    Giá. Tôi vào Chương Thiện. Cũng là
    tôi đi trên quê hương khói lửa
    Đâu nói chi chuyện sáng mắt sáng
    Lòng. Chỉ thêm dài dòng . Đã rõ…

    Nguyễn Lương Ba


    3. THẾ NÀO LÀ NHỮNG ÂM VANG TRONG THƠ TỰ DO ?
    Âm vang của thơ Tự Do chính là ngữ điệu của câu thơ tác tạo nên. Kỷ thuật là làm sao đạt tới sự tinh vi nhất của ngôn ngữ. Sự tinh vi này là kết tinh của tư tưởng cùng sự bức xúc của tâm hồn. Ngôn ngữ tinh vi là một đặc điểm, hơn nữa là một ưu điểm của thơ Tự Do. Văn học miền Nam Việt Nam, khi nhắc đến thơ Tự Do, người ta nghĩ ngay đến Tạp chí Sáng Tạo của thập niên 1950-60 với Thanh Tâm Tuyền như là một nhà thơ chủ soái của phong trào.Ông đã có những bài thơ gây âm vang chấn động, tạo nên một làn sóng hâm mộ trong giới trẻ suốt nhiều thập niên:
    BÀI THƠ VUI
    Một người treo cổ trên cành cây
    Trong công viên giữa thành phố
    Nhìn một phút cuối cùng
    Đôi tình nhân hôn nhau
    Xong
    Thiếu nữ cười tinh nghịch như hòn sỏi
    Ném lăn theo triền mái ngói.
    và đây là một bài thơ rất quen thuộc của Thanh Tâm Tuyền:
    D Ạ K H Ú C
    Anh sợ những cột đèn đỗ xuống
    Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
    Bóp chết mọi hy vọng
    Nên anh dìu em đi xa
    Đi đi chúng ta đến công viên
    Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
    Ôi môi em như mật đắng
    Như móng sắc thương đau
    Đi đi anh đưa em vào quán rượu
    Có một chút Paris
    Để anh được làm thi sĩ
    Hay nửa đêm Hà Nội
    Anh là thằng điên khùng
    Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tớI
    Chiếc kèn hát mãi than van
    Điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
    Sao tuổi trẻ quá buồn
    Như con mắt giận dữ
    Sao tưổi trẻ quá buồn
    Như bàn ghế không bầy
    Thôi em hãy đứng dậy
    Người bán hàng đã ngủ sau quầy
    Anh đưa em đi trốn
    Những giày vò ngày mai.
    Ngọc Dũng
    T I Ế N G H Á T
    Đêm khua bí mật như mũi tên bay
    Từ một đảo hoang nào không biết
    Tên em mỗi loãng dần giấc ngủ mê
    Và giọt mưa rơi cách biệt
    Và tiếng khóc nhỏ xuống
    Hạt mưa tan thành tiếng kêu
    Đêm phủ đầy em một rừng chết
    Chiều trên cánh tay
    Em thắp lửa đầy mình bỏ trốn
    Vào thinh không hãi hùng
    Mặt biển chừng xanh bão táp
    Anh thở khói tròn những luyến tiếc không
    Và hẻo lánh thấm dần mãi da thịt
    Giữa đồng lầy mực nước dâng loang.
    Qúach Thọai
    (một nhà thơ có tâm trạng u ẩn như thi sĩ Hàn Mạc Tử)
    HÃY TRỞ VỀ
    Ôi, yêu dấu, yêu dấu
    Tôi đã chờ đợi em lâu quá lâu
    Đến khi nào hồn em rồI mới đậu
    Trên hồn tôi cánh tình ái nhiệm màu
    Ôi, yêu dấu, yêu dấu
    Em hãy trở về mơn trớn lấy tim tôi
    Hồn cô độc đã từ lâu lạnh lẽo
    Hãy trở về đốt lửa hộ đôi môi
    Ôi, yêu dấu, yêu dấu
    Em hãy trở về vội vã cùng tôi
    Tôi rất sợ ngày mai không sống nữa
    Hãy trở về thương nhớ lắm em ơi
    Ôi, yêu dấu, yêu dấu
    Em hãy về ôm xiết lấy tôi mau
    Và giữa phút mê ly mầu nhiệm ấy
    Tôi chết đi hồn ấm áp thiêu thân.

    Ngôn ngữ này được sử dụng vừa là hình thức vùa là nội dung của tác phẩm. Cái đẹp chính là sự ngưỡng mộ.


    4. CÂU ĐỀU CHỮ, VẮT DÒNG VÀ VẦN
    Như đã trình bày, thơ Tân hình thức sử dụng ngôn ngữ đời thường để phổ vào thơ. Nó không như các thể thơ 7 chữ hay 8 chữ hay các hình thức thơ vần trước đó (lục bát, thất ngôn bát cú…). Thơ Tân hình thức với tính truyện, bài thơ sẽ được dẫn đi chừng nào nhà thơ không muốn nữa thì thôi. Bởi thế mới vắt dòng. Chỉ mượn hình thức 7 chữ hay 8 chữ và như Khế Iêm đã viết: “Đối với thơ Việt, khi dùng lại hình thức 7, 8 chữ hay lục bát là làm cho thị giác đỡ bị vướng mắt, dễ tạo nhạc tính, hình ảnh và áp dụng các yếu tố khác, qua đó người đọc đánh giá được tài năng và sức sáng tạo của nhà thơ.”
    Thí dụ một vài bài thơ Tân hình thức của các tác giả:
    Thơ 5 chữ của
    Nguyễn Đạt
    NGHĨA TRANG ĐA THỌ
    Tôi có một cô em
    ở đồi Đa Thọ nhắn
    rằng tôi hãy mau trở
    về đồi dã quỳ sẽ
    dẫn tôi tới mộ sẽ
    biểu nơi này đích thực
    là quê của tôi đấy
    dù không phải quê tôi
    nhưng cô em đã ở
    đó đời đời dã quỳ
    đã bấy nhiêu năm ngây
    dạI bấy nhiêu nắng hanh
    gió hắt hiu đời đời
    Dã quỳ cành bên hoa
    vàng bia mộ khắc tên
    em trên đồI Đa Thọ
    trên vách núi đá trên
    thân thông già buột tôi
    quên khó hơn là nhớ
    mùa về tôi cũng về
    thôi quê tôi đấy hiển
    nhiên trắng lưng đồI bụi
    dã quỳ cài hoa vàng
    trên mộ Đa Thọ trao
    em em gửI lại tôi.
    Thơ 6 chữ của
    Nguyễn Lương Ba
    MỖI NGÀY CHÚNG TA CÓ CÙNG VỚI NHAU
    Muốn tả chân em thì anh
    đứng ngoài để tả chân em
    đứng ngoài điều mình tả vì
    chỉ để mô tả có thể
    nào thì nói lên thế rồi
    tự xóa một cách khách quan
    để bây giờ nơi đó em
    chờ người về nhớ ngày chia
    tay để bây giờ nơi đây
    những dấu chân khắc dấu
    hoài niệm giấc mơ dài thật
    lãng mạn chập chờn dài mãi
    những hoài niệm trong căn nhà
    để đi tới đi lui với
    chính mình bắt đầu tan tành
    sức mẻ một nơi mộy chút
    sức mẻ tình yêu của Thượng
    Đế sức mẻ không yêu ai
    nữa từ chối sự sáng tạo
    tình yêu nằm im giữa người
    người nằm im chập chờn giấc
    mơ xa lạ con virus
    xa lạ tự tìm tự tạo
    không có gì sẵn sàng cả
    Muốn tả chân em thì anh
    đứng trong để tả chân em
    đứng trong điều mình diễn tả
    nhìn em như một lối nhìn
    sáng rỡ xa lạ cái thế giới
    nhìn nhìn em không có gì
    sôi nổi hơn vấn đề sống
    chết của con người nhân loại.
    Thơ 7 chữ của
    Khế Iêm
    ĐIẾU THUỐC LÁ

    Tôi đứng dưới mái hiên, nhìn lơ
    đãng người đàn ông tồi tàn, sặc
    mùi rượu, đi ngang qua (rồi quay
    lại) xin điếu thuốc lá, điếu thuốc
    lá dĩ nhiên, điếu thuốc lá chẳng
    lẽ tôi không có một điếu thuốc
    lá, bởi vì nhiều lần trong đời
    trắng tay tôi đã không có cả
    một điếu thuốc lá, điếu thuốc lá
    rẽ mạt, không đáng gì, một thời
    tôi đã từng không có cái không
    đáng gì-xin lỗi xin lỗi-nhưng
    người đàn ông tồi tàn, sặc mùi
    rượu đã bỏ di( rồi quay lại)
    đưa cho tôi một điếu thuốc lá
    điếu thuốc lá không đáng gì và
    bây giờ tôi vẫn không có cả
    cái không đáng gì-cảm ơn, cảm
    ơn- người đàn ông tồi tàn, sặc
    mùi rượu và điếu thuốc lá tầm
    thường như thế, ngạc nhiên như thế
    tràn đầy trong đời sống chung quanh
    tôi và tôi cũng tầm thường như
    thế, ngạc nhiên như thế dưới mái
    hiên này, tôi là ai, tôi là
    ai ừ tôi là ai, sao tôi
    không biết?

    3 nhà thơ: Nguyen Luong Ba, Nguyễn Đạt, Khế Iêm

    Leave a Reply

    Subscribe to get notified of the latest Tin Tho updates.

    spot_img

    Up Next

    Discover

    Other Articles