Nguyễn Lương Ba
BÙI CHÁT : THƠ
Trong một bài diễn thuyết nhan đề là :”Nguồn gốc tác phẩm nghệ thuật” đọc ở Francfort tháng chạp 1936. Heidegger đặt vấn đề tại sao có nghệ thuật, hoặc rõ rệt hơn tại sao có tác phẩm nghệ thuật , vì hỏi tại sao có nghệ thuật người ta có thể hiểu như là tra hỏi về một cái gì có thể có như một lý tưởng, không phải là thực tại đang có. Vì thế phải hỏi: tại sao thực sự chúng ta có những tác phẩm nghệ thuật . Có phải vì có nghệ sĩ mà có tác phẩm, cũng như vì có thợ đóng giày mà có giày dép không, hay là vì chúng ta cần có giày dép như một nhu cầu mà có giày, và do đó có thợ đóng giày, cũng như vì chúng ta cần nghệ thuật như một nhu cầu mà có tác phẩm nghệ thuật và có nghệ sĩ.
Như vậy nghệ thuật là một đòi hỏi căn bản của con người , nó biểu lộ một dự phóng ở đời của con người và dự phóng đó thường dựa trên một nền tảng tổng hợp cấu tạo nên cuộc đời của một cộng đồng tập thể. Ví dụ đây là một ngôi chùa .Trước hết ngôi chùa tượng trưng cho một niềm tin tôn giáo của con người, nó gắn liền mọi khía cạnh liên đới giữa con người với con người ,chia sẽ quan niệm về thờ cúng, sự sống, sự chết cũng như bày tỏ niềm hân hoan, an lạc hạnh phúc có được trong cuộc đời này Nhưng cuộc đời đó chỉ có thể bày tỏ trên một nền tảng hài hòa của thiên nhiên như ngôi chùa đã nói phải được dựng xây trong một bối cảnh đất trời nào đó nào là dòng sông uốn quanh phía trước đến cổng tam quan dẫn vào một khoảnh đất trống lát đá sỏi, hai bên là những hàng cây phủ rạp bóng mát. Phía bên trái là cái tháp chuông Đại Hồng Chung được đúc từ thời vua Thiệu Trị, phía bên mặt là một tấm bia cao cả một mét viết bằng chữ Hán ghi lịch sử của ngôi chùa, ghi nhớ công đức của các vị đã sáng lập nên ngôi chùa. Kế đến là những bức tượng của các vị thần La Hán , các bức tượng Phật hai bên dẫn vào Chánh Điện . bên trong có những bức tranh vẽ Đức Phật từ lúc đi tu cho đến khi nhập Niết Ban.. Nói cách khác tất cả những rung động của ta về những hình ảnh, những xúc cảm về ngôi chùa đều được xây dựng trên một nền tảng nguyên ủy mà Heldegger gọi là Trái Đất (die Erde ). Khi xây dựng tác phẩm, người nghệ sĩ chỉ là bày tỏ, thể hiện những khuôn mặt của trái đất.
Với những đặc tính như là cổng tam quan, các bức tượng La Hán, các tượng Phật và những bức họa bên trong ngôi chùa…đều là những yếu tố cấu tạo nên tác phẩm cũng là những đặc tính của trái đất bởi thế ta mới hiểu được nghệ thuật như một biểu lộ , có thể bày tỏ mà chính nó không bày tỏ ..
Nghệ thuật là nền tảng, mặc khải những chân lý về cuộc đời thì nghệ thuật tất yếu đều có tính cách thi ca (tout art poétique ) có tiếng nói của chính thi ca và cũng có những tiếng nói im lặng, âm thầm như trong hội họa, điêu khắc, những chạm khắc các bức tượng, các tranh vẽ trong Chùa cũng đều bày tỏ , biểu lộ cũng là một thứ tiếng nói nhưng là tiếng nói của im lặng.
Khi nói về thơ thì nó hoàn toàn là ngôn ngữ thuần tuý, chỉ ngôn ngữ thuần tuý. Hegel còn cho rằng ngôn ngữ là hủy thể tính có nghĩa khi nói ra một sự vật gì thì sự vật đó bị triệt tiêu, lu mờ ngay bởi vì ngôn ngữ nói ra một điều nhưng cũng chẳng nói được gì vì ngôn ngữ không bao giờ nói hết. Ngôn ngữ là một ngỏ cụt. Nhưng vượt lên những suy nghĩ tiêu cực, ngôn ngữ là một đặc ân của con người , lời nói là nói lên, kêu tên sự vật và biểu lộ cách thế ở đời của con người.
Nói về thơ của Bùi Chát là nói về ngôn ngữ. Ngôn ngữ này đến từ cái nhìn. Nếu định nghĩa người với người là một tương quan bạo động vì không ai muốn mình bị áp bức. Sartre nói:” Cuộc đời người khác là sự đe dọa của tôi ” (Ma chute originell, c’est l’existence de l’autre ) bởi vì tự do của người khác sẽ đối chọi với tự do của tôi :
Ở trạng thái này hắn làm sao
để giấu. Bỏ bàn tay sau lưng
ngay túi áo, trong hộc tủ. Tay
phải cầm tay trái, hoặc ngược lại
Rồi giấu cả hai tay, bằng cách
cùng nắm chắc một vật cố định
tư thế lao về trước. Lộn người
để bung ra như búp bê tháo
mình bởi ngoại lực thế là đủ
Để an tâm vấn đề này (nọ)
Hắn nghĩ. Nếu ném đá chỉ để
giấu tay, hoặc giấu tay mà tiếp
tục ném đá. Thì tốt hơn (thua)
hãy quay về biển để làm gì
Nhiều cô gái đang bơi ngửa lưng
Hắn ném cái nhìn vào lưng những
cô gái, phải giấu gì của mình
bây giờ . Đang băn khoăn về mô
típ này hắn thấy một động vật
(và) bị giam cầm (cập) đang cố
gắng vượt rào trước mắt mọi người
Hắn xuống tàu & vội vã ra khơi.
(Búi Chát: Giếm)
Thật ra Bùi Chát sáng tác với nhiều thể loại . .Đầu những năm 2000, anh cùng một nhóm bạn thơ lập nhóm Mở Miệng ( Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán…) có khuynh hướng đối kháng với những bất công xã hội . với cuộc đời và với chính mình như là thận phận của con người vì ta không thể tránh được việc luôn luôn phải xác định thái độ trong mọi hành động Đó là con đường của nhận thức và là một tình cảm luân lý. Đặt ngược vấn đề như cụ Trần Tế Xương đã than:
Thiên hạ có khi đang ngủ cả
Tội gì mà thức một mình ta
Câu thơ cảnh tỉnh như một tấn tuồng hồi tưởng cho các sĩ phu thời bấy giờ và như đã biết những bài thơ của Mở Miệng trong thời gian này đã được viết thành luận án cấp Đại Học (biên soạn bởi nhà văn Nhã Thuyên )
Nhưng mặt khác thơ Bùi Chát trong một lúc nhận ra rằng cuộc đời này chỉ là sự ra đi, như một kẻ bỏ nhà lang thang nghĩa là sống trong hoài niệm. Hoài niệm về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa, về cái tôi cô đơn, luôn luôn bị ám ảnh là chỉ có một mình. Con người cô đơn là linh hồn của trường phái lãng mạn:
” Nằm đêm anh cứ thương em
Rơi nghiên nước mắt một bên gối nằm
Thế này cho hết trăm năm
Đến muôn năm vẫn âm thầm thương em”
( Xuân Diệu )
Con người thiết yếu tương quan với mọi người. Trong cô đơn không có tương quan đó nên con người cô đơn luôn luôn muốn vượt thoát mình để tìm đến tha nhân. Đó là điều hết sức bi đát( La solitude est tragique). Con người không muốn ở trong cô đơn nên luôn muốn phá vỡ nó bằng cách tìm đến những mối thông cảm, tìm một tương giao với ngoại cảnh và sự vật:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
(Xuân Diệu)
hay như thơ của Đinh Hùng:
Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nắm mộ sâu.
Và thơ của Mai Thảo, một ngày buồn một mình uống rượu:
Ngồi tượng hình riêng một góc quầy
Tiếng người: kia, uống cái chi đây?
Uống ư? một ngụm chiều rơi lệ
Và một bình đêm rót rất đầy
Nhưng những ngày tháng ở đời như thế sẽ đưa đẩy nghệ thuật như là phương tiện cứu rỗi để phục hồi cuộc sống an nhiên, hạnh phúc và như Camus trở về với đời , lòng vẫn đầy mơ ước, khi biết thức tỉnh, phản kháng, tình cảnh lưu đày trong phận làm người;
Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao
Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng vẻ
Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tỉnh lặng
Chẳng chịu cho lòng ta yên ổn
Anh mãi mê về một màu mây xa xôi
Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ thó
Về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa
Em hát một câu thơ cũ sì
Cái say mê của thời thiếu nữ
Mỗi mùa hoa đỏ về quê
Hoa như mưa rơi rơi rụng
Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi đẹp
Như máu ứa một thời trai trẻ trung
Hoa như mưa rơi rơi rơi
Như tháng ngày xưa ta khờ khạo
Ta nhìn vào tận sâu mắt nhau
Mà thấy lòng đau xót xa
Trong câu thơ của em nhỏ
Anh không có mặt mẹt
Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết
Anh đâu buồn mà chỉ tiếc rẽ
Em không đi hết những ngày đắm say sưa
Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ trai
Hoa đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ chói
Như vết xướt của trái tim gan
Sau bài hát rồi em lặng im
Cái lặng im rực màu hoa đỏ ối
Anh biết mình vô nghĩa đi bên em
Sau bài hát rồi em như thể dục
Em của thời hoa đỏ ngày xưa kia
Sau bài hát rồi anh cùng thế giới
Anh của thời trai trẻ ngày xưa đó.
(Bùi Chát: Màu hoa đỏ lè)
Và rồi thì tình yêu thương con người là đáng quý nhất bao hàm một quan niệm biết thông cảm. Sự đau khổ vẫn là của riêng mình, không thể nào chia xẻ cho người khác nhưng tình cảm an ủi, thấu hiểu cần thiết của một người bạn người tình sẽ giúp cho khả năng chịu đựng sự cô độc vơi đi với người em thương nhớ vì không ai có thể trách nhiệm cuộc đời người khác:
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi
Nào đâu cái yếm lụa sồi
Cái dây lưng dúi nhuộm hồi sang xuân
Nào đâu cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ qụa cái quần nãi đen
Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng nhau
Hoa cau nở giữa vườn cau
Thầy u mình có cái đầu chân quê
(Bùi Chát: An toàn là bạn mà)
BÙI CHÁT : HỌA
Bùi Chát đã chuyển qua vẽ tranh cả mười năm nay .Anh tự học, nghiên cứu và triển lãm tranh . Được rất nhiều bạn bè đến ủng hộ. Ở đây tôi chỉ trích dẫn các ý kiến về hội họa của các họa sĩ lừng nổi tiếng một thời :.Vì thật sự tôi chỉ biết xem tranh, theo sở thích của mình , rất hạn chế về kiến thức cũng như am hiểu về vẻ đẹp của các trường phái hội họa. Vì thế chiêm nghiệm các kinh nghiệm của các họa sĩ tiền bối cũng đáng để cho chúng ta học hỏi( Những ý kiến này được trích trong báo Văn số 93 năm 1967 ( chuyên đề về hội họa,) xuất bản tại Sài Gòn.
Họa sĩ Thái Tuấn :
“Đứng trước cảnh trí thiên nhiên, sự lựa chọn giữa cái đẹp và cái xấu do từ một rung cảm thuần khiết chân thành. Song nếu nguồn mỹ cảm bản năng đã giúp cho con người hưởng thụ những vẽ đẹp thiên nhiên thì ngược lại khó có thể giúp cho ta hưởng thụ trọn vẹn một công trình nghệ thuật . Những nghiên cứu về tâm lý và về hình học đã cho biết ý thức thẩm mỹ của con người dần dần phát triển qua bao nhiêu thế hệ với nhiều đổi thay để trở nên tế nhị và cũng phức tạp hơn do hoàn cảnh và ảnh hưởng đời sống.
Từ cảnh trí ở ngoài thiên nhiên đến phong cảnh trong bức hoạ, sự vật đã biến dạng để trở thành chất liệu cho người sáng tác. Hình nét trong tranh này có thể từ sự vãt mà đến nhưng không còn là sự vật và thuộc về sự vật nhìn thấy Màu tóc này là ánh mây muôn màu rực rỡ nhưng cũng là mái tóc ai sầu muộn.. Ánh sáng này của ngày hôm nay nhìn thấy nhưng cũng là của ngày hom6 qua hồi tưởng và ngày mai ước vọng…”
Hoạ sĩ Nguyễn Đồng:
“Cũng như âm nhạc, tác phẩm hội họa có tác động thẳng đối với tâm hồn thưởng ngoạn bằng ngôn ngữ trực tiếp của nó là màu sắc và hình thể. Mỗi màu sắc chỉ riêng một ấn tượng . Thí dụ: vàng: nóng, bực tức, màu ấy gợi nhớ đất. lam: gợi bầu trời, màu thanh thản, trong, trang nghiêm, lạnh- đỏ nồng nàn, đam mê, mạnh bạo- xanh tĩnh, thụ động, trung hòa- trắng và đen: thì cũng là im lặng nhưng im lặng ở trắng tiềm tàng sức mạnh. Hình ảnh cũng là những ký hiệu thị giác . Nhiều hình thể có thể có những tác dụng rõ ràng riêng biệt có hương thơm tinh thần riêng. Góc nhọn tam giác tương ứng ý nghĩa màu vàng, tương ứng với màu đỏ là góc vuông và hình vuông, . Những đường nét cũng vậy không phải chỉ để xác định hình thể hay chỉ trình bày chuyện động, chúng có thể diễn tả những chiều hường toát ra, sự nẩy mầm của những sức lực tự nhiên..”
Họa sĩ Ngọc Dũng:
Người thưởng ngoạn đừng bao giờ tìm công dụng của đồ vật trong tranh. Cái ghế trong hội họa không để ngồi. Cái cây không để che bóng mát. Và người đàn bà trong tranh cũng không để ôm ấp, sờ mó. Còn sự bắt gặp giữa người sáng tác và người thưởng ngoạn, theo tôi là một điều hết sức khó khăn. Người thưởng ngoạn thường đòi hỏi một cách khó tính. Phải nhớ rằng người sáng tác chỉ phát lên một tiếng kêu. Tiếng kêu ấy có thể hiểu ở mỗi người một cách khác. (tạp chí Sáng Tạo bộ mới só 3-09/1970)
Họa sĩ Duy Thanh :
Trước một tác phẩm hội họa người thưởng ngoạn không phải chỉ cốt nhìn xem trong ấy có những hình thù gì để có thể tự cho là hiểu thấu bức tranh này bức tranh nọ. Tôi cho điểm chính là cần phải nhìn được cái tâm tư tác giả qua toàn thể bức tranh. Điều ấy nó hiển hiện qua nét bút hoặc màu sắc hoặc lối diễn tả. Đề tài theo ý tôi là điều phụ thuộc. Một bức tranh có thể không nói gì hết ở đề tài nhưng điều quan trọng là ở chỗ khác, chính là bức tranh ấy đã tự nói đầy đủ tiếng nói của nó rồi. Tác giả không cần phải giải thích hộ bức tranh bằng lời nữa. Không cần phải nói rằng tôi vẽ bức tranh này nhân khi xúc động trước một buổi chiểu vàng, cái màu xanh màu đỏ đặt như thế này cốt để diễn tả tư tưởng này nọ. Giải thích hộ tác phẩm mình là một họa sĩ hạng bét. Tác phẩm sẽ vô giá trị khi tự nó không nói gì hết, tự nó không đứng vững nổi trong cuộc sống. Nói gần hơn nếu tự nó không đứng vững trên một bức tường.
(.tạp chí Sáng Tạo bộ mới số 3(09/1970)
XIN CHÀO CÁM ƠN MOI NGƯỜI ĐÃ ĐỌC
Related