Tôi là bọt biển ở trong em Người ta vào thì tôi lép tôi Nép vô một bên người ta ra Thì tôi lại phồng lên tôi không Cứng tôi mềm có khi em vươn Vai nó nở người ta hỏi tại Sao em cười em cười là vì Bình minh tới em cười là vì Chiều rơi em cười là vì ở Trong em dễ chịu không ai biết Là ở trong em có một bọt Biển nếu có ai hỏi sao em khô Vậy thì tại nước em có ở Bên trong tôi nằm đó mà hút
21/5/2025
Nguyễn Lương Ba
H Ò A Â M S Ư Ơ N G
Kinh doanh đường phố tăng vọt như vòi cứu hỏa mở tràn ngập máng xối từ góc này sang góc khác Khi cô ấy đi về nhà muộn sau những ngôi sao hạng nhất xe buýt xuyên thành phố rung chuyển căn nhà sát đường ray mỗi giờ Tôi lắng nghe tiếng chìa khóa trong cửa phía sau nó, chúng tôi theo bản năng cúi mình bốn chuyến bay phía trên một thành phố đã biến thành những kẻ đẩy xe qua hệ thống liên lạc nội bộ Hôm nay cơn mưa rào nhà tôi cũng đã mát rồi tháng năm đã nhẹ nhàng bên trong Biển trời chớm nở bến tàu mát dần từ nhỏ bé mặc dù người đó hẳn phải có Vũ trụ đã là nhà kho năm sau Mya nhớ quê hương mùa đó thách thức mùa màng sông cát Sông biển sao biển thích thú mực ăn sung hòa âm sương biến đổi tươi dịu đập vỡ.
05/22/2025
Hà Bạch Quyên
CHÂN TRỜI XA KHƠI
luôn âm vang trong em lời tình anh xưa vương vấn vương suốt đời giông gió một đời em say kinh nơi thiền môn một đời anh lưu
ly chân trời biền biệt tay em lần chuỗi ngày đêm em thầm nguyện xin ơn trên ban phước bình an nhưng rồi rồi lại nhớ anh nhớ
anh như lá nhớ cành nhớ anh như sóng hoài hôn lên bờ cát nên lòng em nào ngưng cơn dào dạt ơi anh! giờ nơi đâu anh
đang làm gì còn nhớ em không khi mùa đông đến mùa tiễn đưa anh em khóc đầm đìa một lần tiễn anh một đời mất anh em
thành cây khô chờ rã mục hay em hóa đá mai này luôn âm vang trong em lời tình anh xưa vương vấn vương suốt đời giông gió
một đời em say kinh nơi thiền môn một đời anh mãi lưu ly chân trời ơi … xa xa khơi ..!!
30082004
Thạch Tốt
TÔI LÀ CON CÁ
Cơn mưa rào của ngày hôm nay thật cũng đã mát dịu dù rằng … đã tháng năm nguôi ngoai trong lòng trời chớm hạ biển vũng tàu mát
a ha vẫn thích con cá tuna từ nhỏ dù rằng phải có người kho ngon là đã tháng năm tôi nhớ về quê cha mùa mưa đó
phá thuận an biển cát trắng sông biển biển sông sao mà thỏa thích hài hòa sung sướng ãn mực nướng biến dịu dàng vỗ đập trong lành
nào đâu có ai oán biển ngàn đời êm ái dù ở chung cư hay bar mỹ xập xình biển vẫn vỗ (hay đập) rì rào tiếng nhạc
cao ngất trường sơn…nào đâu ai mà nghĩ biển bị nhiễm độc là con cá chết trắng bờ bây giờ chỉ ngồi mà nhìn ra biển and
now the sea is in me là con cá thu , cá ngừ còn nữa tôm cua hải sản bắt mồi làm gì biến bị nhiễm độc cá chết
trắng bờ chảy nước miếng con cá thu cá ngừ còn mấy con nữa oại đặc sản chảy nước miếng đừng nói chuyện buffet ồ sushi
nhớ tất niên giờ chỉ ngồi mà nhìn ra biển, nhìn ra biển biết làm sao ai gây ra? Tôi là con cá, là con cá.
17.5.2025
Nguyên Thu
ANH VÀ CÂU CHUYỆN KỂ
Anh là thuốc của em Anh là thức ăn của em Anh là nguồn sống của em
Miếng bánh ngọt xếp que Từng nụ tình nõn xanh Ngôn ngữ dẫn dụ chất đầy
Sáng uống cạn môi anh Trưa ăn miếng bánh ngọt Tối thả vào buồng tim ngập ngụa Em say cơn khát thèm
Cảm xúc của em là anh Ngôn ngữ của em từ anh
Anh biến thành những chiếc phao Cứu sinh em ngược dòng Tình yêu và câu chuyện kể
Govap 13.8.2023
Xuân Thủy
NHÂN DÂN UKRAINE
Chuyến Tàu đêm nhẹ nhàng êm Sao như thể là đang mơ trong cung Điện mùa hè ta đã ngủ Trên chiếc giường êm ly trà nóng bóng Gương soi như lau như ly Nhìn rõ những hàng cây bên rừng từ Moscow đến Kiev trên hành trình
Ta đến trường đại học à không khu Ký túc xá trường đại học Nơi một người bạn của Anh ta đang Nghỉ hè mùa hè tỉnh giấc Rất nhanh và chuyến Tàu êm cũng vậy Đánh thức ta trong cung điện Mùa hè và cốc trà thủy tinh trong
Cái giá bằng bạc Hoa Văn Thật bắt mắt và nghệ thuật bữa sáng Xong và ta tiếp tục hành Trình một chặng đường nữa không xa không Xa nữa sáng sớm mùa hè Trong lành quá yên bình như thể chỉ Còn cây lá làm bạn đường
Bạn đường thôi chỉ Cần một chuyến xe Buýt nữa là tới nơi rồi Chưa đến ca sáng và chưa có Tài À mà không đã có Bác Tài trên xe nhưng chưa đến ca sáng Không có hành khách nào chỉ Có cây lá làm bạn cùng Anh – Bác
Tài xế trẻ vui cười và khỏe khoắn mà Giọng nói lại nhẹ nhàng sao Như những hàng cây lá cây lá rì Rì rào thấy chúng tôi những Người khách lạ Anh đã vui vẻ cho Xe chạy mà không Cần ca Ca gì cả Anh đón chúng tôi như
Thành phố này đón chúng tôi… Và cuộc picnic mùa hè chúng tôi Có thêm người bạn mới thành Phố này thành phố này thành phố chỉ Có những người già nói tiếng UKRAINE thành phố của những dòng Sông ánh vàng chóp nhà thờ
Thành phố cung điện hòa bình Tôi bước đi trên con đường Bình yên Thiên đường Tôi nghĩ lại đó chính là … à nhớ ra lần đó bác Tài chở đi không mất tiền vì chưa đến giờ ca trong ca mới tính tiền tính tiền …chuyến xe thiên đường
Thiên đường vậy mà nhói đau Lại có nơi tôi còn quá nhỏ để biết Tại sao một Thiên đường giàu có Với những trái cam chín mọng nổi tiếng Và biết bao những vùng đất Đẹp tươi Thiên đường nơi không ai Quan tâm đến chính trị chính
Eo làm gì trò chơi của những con Rối chúng phải làm gì đó Chứ để Bác Tài xế có lương cho Gia Tài nhỏ bé bữa ăn Gia đình nay không còn nữa khó thế Khó thế sao nhưng tôi không Không tin đâu phát đại Bác đen ngòm
Vào tòa nhà Quốc hội UKRAINE Hôm này là của thành phố Này của những hàng cây của dòng sông Cửa chớp nhà thờ của cụ Già đang ngồi trên ghế đá công viên Nơi Quảng trường độc lập này Có chăng đó chỉ là cuộc ẩu đả
Trên đường phố như bao đường Phố khác ở phương Tây điều không có Ở những miền viễn Đông nơi Con người được hun đúc từ thời tiết Khắc nghiệt và sự bao La Trong tâm hồn nơi Thiên đường không Cần luật lệ không Cần những
Trò chơi những vở kịch trên sân khấu Nhỏ bé bao giờ cũng chỉ Là nhỏ bé để làm gì làm gì Cho một đời chóng tàn cho cỗ máy Đừng hỏng nếu không lấy gì đó … Đó ở đây nơi tôi trở về quê quê hương tôi thành phố không có ngày
nào là bình yên thành phố không có ai chào tôi buổi sáng đón chào tôi trên đường đi và ai đó không ai cho tôi cái gì đó dù là nhỏ nhất trên một phần thân thể của họ dù thành phố này cũng đã từng mất mát
mất mát những máu xương cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại mà không tượng đài nào cho những người anh hùng trong thành phố bây giờ ít con người không ai còn nhớ để làm gì thật là vô nghĩa như cái sống tôi đang sống và cái chết được
an ủi một phần nào vì những con người sống cũng vô vị như… à không phải thế chiều nay tôi nhớ về những ngày xa xưa ấy có lẽ chuyến tàu chúng tôi khởi hành từ tờ mờ sáng hay rồi mãi đến chiều mới tới Kiep
và rồi cũng có thể không phải thế chỉ là những ký ức vỡ nát chiều nay câu chuyện dài bất tận đã phải kết thúc ở đâu đó đâu đó trong những mảnh vỡ và rồi còn những hành trình tiếp theo đến những thành phố khác mùa hè
tôi ngắm trời xanh chiều nay khung cửa sổ nhỏ chở tôi qua khoảng trời mùa hè năm ấy dù sao dù sao đi nữa thì cũng đã muộn hay còn quá sớm nào đã vào ca hay đã hết giờ làm việc Bác tài xế trẻ vẫn giúp chúng tôi một đoạn đường không mất tiền trên chuyến chuyến xe chuyến xe thiên đường…
Phong trào Tượng Trưng là một phong trào trong văn học và nghệ thuật thị giác có nguồn gốc từ Pháp vào cuối thế kỷ 19.
Trong văn học, tượng trưng là một phong trào thẩm mỹ khuyến khích các nhà văn thể hiện ý tưởng, cảm xúc và giá trị của họ thông qua các biểu tượng hoặc gợi ý thay vì bằng các tuyên bố trực tiếp. Các nhà văn tượng trưng phản ứng với các xu hướng đầu thế kỷ 19 (chủ nghĩa lãng mạn của các tiểu thuyết gia như Victor Hugo, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên của Gustave Flaubert và Emile Zola), tuyên bố rằng trí tưởng tượng là người diễn giải thực sự của hiện thực. Họ cũng loại bỏ các quy tắc cứng nhắc của thơ ca và hình ảnh thơ ca rập khuôn của những người tiền nhiệm của họ, những người được gọi là Panassian. Những người tiền nhiệm quan trọng của thơ tượng trưng là nhà văn người Mỹ Edgar Allan Poe và nhà thơ người Pháp Gerard de Nerval.
Phong trào tượng trưng bắt đầu từ thơ của Charles Baudelaire, tác phẩm Les Fleurs du mal (Hoa của cái ác, 1857) và Le spleen de Paris (Lá lách của Paris, 1869) của ông bị những người đương thời đánh giá là suy đồi. Salon văn học và thơ của Stephane Mallarme, chẳng hạn như L’apres -midi d’un faune (Buổi chiều của một Faun, 1876) tiếp tục phong trào, các nghiên cứu văn xuôi của ông Divagation (Những lời lảm nhảm, 1897) đã hình thành nên một trong những tuyên bố quan trọng nhất về mỹ học tượng trưng. Ba tác phẩm thơ ca gắn liền với phong trào này là Romances sans paroles (Những bài ca không lời, 1874) của Paul Verlaine và “Le bateau ivre” (Chiếc thuyền say rượu, 1871) và Une saison en goes (Mùa ở địa ngục, 1873) của Arthur Rimbaud.
Phong trào Tượng trưng vẫn tồn tại cho đến tận những năm 1890, trong các tác phẩm của những nhà thơ Pháp như Jules Laforgue và Paul Valery cũng như của nhà văn và nhà phê bình Re’my de Gourmont. Pelle’as et Me’lisande, của nhà viết kịch người Bỉ Maurice Maeterlinck là một trong số ít vở kịch tượng trưng. Từ Pháp, chủ nghĩa tượng trưng lan rộng ra toàn thế giới – đặc biệt là đến Nga, nơi nó được chứng minh trong tác phẩm của nhà thơ Aleksandr Blok và có ảnh hưởng lớn đến việc định hình nền văn học thế kỷ 20.
Trong nghệ thuật thị giác, chủ nghĩa tượng trưng có cả ý nghĩa chung và ý nghĩa cụ thể. Theo một nghĩa nào đó, nó ám chỉ việc sử dụng một số quy ước hình ảnh nhất định (tư thế, cử chỉ hoặc một loạt các thuộc tính) để thể hiện một tài năng mang ý nghĩa ngụ ý trong một tác phẩm nghệ thuật (xem biểu tượng học). Theo một nghĩa khác, thuật ngữ chủ nghĩa tượng trưng ám chỉ một phong trào bắt đầu ở Pháp vào những năm 1880, như một phản ứng với chủ nghĩa lãng mạn và cách tiếp cận hiện thực ẩn chứa trong chủ nghĩa ấn tượng. Không hẳn là một phong cách tự thân, chủ nghĩa tượng trưng trong nghệ thuật là một xu hướng tư tưởng quốc tế đóng vai trò là chất xúc tác trong quá trình phát triển thoát khỏi sự biểu hiện trong nghệ thuật và hướng tới sự trừu tượng.
Nguồn cảm hứng ban đầu được tìm thấy trong tác phẩm của các họa sĩ người Pháp Pierre Cecile Puvis de Chavannes, Gustave Moreau và Odilon Redon, những người đã sử dụng màu sắc rực rỡ và sự biểu cảm phóng đại của đường nét để thể hiện những hình ảnh trong mơ đầy cảm xúc. thường hướng đến sự rùng rợn lấy cảm hứng từ các chủ đề văn học, tôn giáo hoặc thần thoại. Những người theo họ bao gồm các họa sĩ người Hà Lan Paul Gauguin và Emile Bernard. Gauguin và Bernard làm việc cùng nhau tại Pont-Aven, ở Britany, từ năm 1888 đến năm 1890 đã theo đuổi một phong cách sử dụng các màu sắc rực rỡ tinh khiết và các hình dạng được xác định bởi các đường viền dày tạo ra các tác phẩm phẳng, có hoa văn trang trí – ví dụ như Tầm nhìn sau bài giảng của Gauguin, hoặc Jacob Wrestling with the Angel (1888, Phòng trưng bày Quốc gia Scotland, Edinburgh) Phong cách này được họ gọi là chủ nghĩa tổng hợp hoặc chủ nghĩa tượng trưng (sử dụng hai thuật ngữ này thay thế cho nhau) để đối lập với cách tiếp cận phân tích của chủ nghĩa ấn tượng. Triển lãm tượng trưng đầu tiên được Gauguin tổ chức vào năm 1889-90 tại Hội chợ Thế giới Paris. Chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng đương đại của Pháp, xu hướng tượng trưng trong hội họa đã dẫn theo một hướng – từ năm 1889 đến năm 1900 – đến tác phẩm của Paul Serusier, Maurice Denis, Pierre Bonnard và Edouard Vuillard. Tự gọi mình là Nabis, họ nhấn mạnh nghệ thuật như một vật trang trí và sử dụng màu sắc một cách chủ quan. Chủ nghĩa tượng trưng cũng là nền tảng cho nhiều phong cách nghệ thuật rất khác nhau của Ferdinand Hodler, họa sĩ người Thụy Sĩ, James Ensor ở Bỉ, Edvard Munch, họa sĩ người Na Uy và nghệ thuật của Aubrey Bearsley, mối liên hệ giữa các khía cạnh khiêu dâm của chủ nghĩa tượng trưng và các hình thức quanh co của phong cách nghệ thuật mới được thấy rõ. Chủ nghĩa tượng trưng với mối quan tâm đến việc sử dụng màu sắc và hình thức mang tính ám chỉ chủ quan có thể được coi là nền tảng cho các phong cách nghệ thuật liên tiếp sau thế kỷ 20: trường phái dã thú, trường phái biểu hiện và trường phái siêu thực.
Symbolist movement a movement in literature and the visial arts thatoriginated in France in the late 19th century.
In literature, symbolist was an aesthetic movement that encouraged writers to express their ideas, feelings and values by means of symbols or suggestions rather than by direct statements. Symbolist writers in reaction to earlier 19th century trends( the romanticism of novelists such as Victor Hugo the realism and naturalism of Gustave Flaubert and Emile Zola), proclaimed that the imagination was the true interpreter pf reality. They also discarded rigid rules of versification and the stereotyped poetic images of their predecessors, the so called Panassians. Important precusors of symbolist poetry were the American writer Edgar Allan Poe and the French poet Gerard de Nerval.
The symbolist movement had its beginning in the poetry of Charles Baudelaire, whose Les Fleurs du mal( The Flower s of Evil,1857) and Le spleen de Paris(1869) were judged as decadent by his contemporaries. Stephane Mallarme’s literary salon and poetry, such as L’apres -midi d’un faune(The Aftenoon of a Faun,1876) carried on the movement, his proes studies Divagation (Ramblings,1897)formed one of the mosy important statement of symbolist aesthetics. Three works of poetry chierty associated with the movement are Paul Verlaine’s Romances sans paroles (Songs Without Words1874) and Arthur Rimbaud’s “Le bateau ivre”( The Drunken Boat 1871) and Une saison en enters (ASeason in Hell1873).
The symbolist movement survived well into the 1890s, in the works of such French poets as Jules Laforgue and Paul Valery as well as those of the writer and critic Re’my de Gourmont. Pelle’as et Me’lisande, by the Belgian playwright Maurice Maeterlinck is one of the few symbo,ist dramas. From France, symbolism spread worldwide- notably to Russia, where it was evidenced in the work of the poet Aleksandr Blok and had great influance on the shaping of 20th century literature.
n the visial arts, symbolism has both a general and a specific meaning. It refers in one sense to the use of certain pictorial convention (pose,gesture, or a repertoire of attributes) to express a talent allegorical meaning in a work of art( see iconnography) .In another sense the term symbolistm refers to a movement that began in France in the 1880s, as a reaction both to romanticism and to the realistic approach implicit in impressionism. Not so much a style per se symbolism in art was an international ideological trend that served as a catalist in the development away from representation in art and toward abstraction.
Inspiration was found initially in the work of the French painters Pierre Ce’cile Puvis de Chavannes, Gustave Moreau, and Odilon Redon, who used brillant colors and exaggerated expressiveness of line to represent emotionally charged dream visions. often verging on the macabre inspired by literary, religious or mytological subjets. Their followers included the Dutch painters Paul Gauguin and Emile Bernard. Gauguin and Bernard working together at Pont-Aven, in Britany, between 1888 and 1890 apopted a style that made use of pure brilliant colors and forms defined by heavy contour lines resulting in flat, decoratively patterned compositions-exemplified by Gauguin’s Vision after the Sermon, or Jacob Wrestling with the Angel(1888, National Gallery of Scotland, Edinburgh) This style they dubbed synthetist or symbolism (using the two terms interchangeably) in opposition to the analytic approach of impressionism. The first symbolist exhibition was organized by Gauguin in 1889-90 at the Paris World’s Fair. Influenced by contemporary French symbolist poetry, the symbolist trend in painting led in one direction – from 1889 to 1900- to the work of Paul Serusier, Maurice Denis, Pierre Bonnard and Edouard Vuillard. Calling themselves the Nabis, they emphasized art as decoration and used color subjectively. Symbolism also was basic to the very different styles of Ferdinand Hodler, the Swiss paiter, James Ensor in Belgium, Edvard Munch, the Norwegian artist and Aubrey Bearsley’s art, the link between the erotic aspects of symbolism and the sinuous forms of the art nouveau style is clearly seen Symbolism with its concern for the subjective allusive employment of color and form can be seen to underlie successive later 20th-century art styles as well: fauvism, expressionism and surrealism.
Trước hết, về cơ bản, thơ ca cho phép các cá thể con người nói lên những cảm xúc, suy nghĩ và trải nghiệm sâu sắc nhất của họ. Nó có thể nắm bắt được các sắc thái cảm xúc của con người theo những cách mà các loại hình giao tiếp khác không thể làm được. Vay mượn câu nói của Milan Kundera, “có những điều chỉ tiểu thuyết mới nói được”, tôi có thể nói “có những điều chỉ thơ ca mới nói được.”
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà con người ngày càng xa cách, tách ly nhau; thơ ca là con đường cứu chuộc cuối cùng cho vấn nạn đó. Trong lúc sự hư ngụy, giả trá được tâng xưng lên làm chân lý, thì thơ ca vẫn lặng lẽ nói lên Sự Thật. Sự Thật của thơ ca là hy vọng cuối cùng cho con người tìm lại được sợi dây thắt buộc mình lại với nhau sau những phân liệt tranh chấp và hận thù.
Thơ ca mở rộng ngôn ngữ, cho phép nhà thơ giao cảm theo cách mà các hình thức khác – một cuộc trò chuyện thông thường, một câu chuyện kể bằng văn xuôi, v.v… – không mang lại được. Chúng ta có thể sử dụng thi ảnh và cảm xúc trong thơ để đạt đến mức độ giao cảm sâu sắc hơn, ngay cả khi thơ không chứa đựng những mật ngôn ẩn giấu, những ý nghĩa đa tầng.
Nhiều nhà thơ đương đại sử dụng tác phẩm của mình để nói lên các vấn đề công bằng xã hội, phân biệt giới tính, xu hướng tình dục, chủ đề chính trị và phê phán văn hóa. Thơ có thể nâng cao nhận thức, kích thích tư duy và truyền cảm hứng hành động cho những vấn đề quan trọng thuộc phạm vi chính trị-xã hội.
Thơ với tư cách là một loại hình nghệ thuật tiếp tục mang lại niềm cảm khoái thẩm mỹ. Việc sử dụng ngôn ngữ, nhịp điệu, hình ảnh và âm thanh có thể tạo ra vẻ đẹp và gợi lên cảm giác ngạc nhiên thích thú về nghệ thuật ngôn từ.
Thơ giúp bảo tồn di sản văn hóa bằng cách truyền lại những truyền thống, câu chuyện và giá trị qua nhiều thế hệ. Đồng thời, nó cũng cho phép đổi mới văn hóa, phản ánh bản sắc và trải nghiệm đang phát triển của con người trong một thế giới toàn cầu hóa.
2. Làm thơ là khám phá và bông đùa với ngôn ngữ
Thơ tự thân là một trò chơi ngôn ngữ, nó luôn tìm cách vượt qua những đường biên ngôn ngữ đời thường để khám phá những khả năng mới mẻ của ngôn ngữ. Thử nghiệm ngôn ngữ là phong nhiêu hóa ngôn ngữ và mở rộng sự hiểu biết cũng như cách sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ phải là một sinh ngữ nếu muốn tồn tại, nó luôn luôn biến đổi theo thời gian qua các thời đại, bằng không nó sẽ là một tử ngữ.
Thơ là một lối viết đặc biệt, khác rất nhiều so với các hình thức viết khác. Tuy nhiên, không có con đường đúng đắn duy nhất nào để trở thành một nhà thơ. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam từ thời Trung đại, nhà thơ thường được xem trọng, vì giới sĩ phu đào tạo trong môi trường Khổng-Mạnh phần nhiều chỉ làm thơ. Nhưng bước sang thời cận và hiện đại, nhà thơ Việt Nam đã “thoát xác”, không còn mang nặng tâm thức “văn dĩ tải đạo” nữa mà ngày càng giống các đồng nghiệp Tây phương của mình.
Thơ đương đại, Việt Nam nói riêng hay thế giới nói chung, là một loại hình nghệ thuật cho phép người viết sáng tạo mà không phập phồng lo sợ phải làm thế nào cho hoàn hảo, nhà thơ không cần lo lắng, phân vân về ý nghĩa. Một trong những tính cách đặc thù của thơ là cho phép người viết bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc, ý tưởng, quan điểm của mình bằng một đường lối trừu tượng, cách điệu hóa tối đa, nếu cần, và không tuân theo các quy tắc viết “truyền thống”. Một nhà thơ, nếu hắn làm đúng công việc của mình, sẽ khiến người đọc phải cố gắng tìm ra chính xác ý nghĩa, mục đích hoặc cảm xúc được truyền tải là gì. Đây là một trò chơi, trò chơi đoán xem cái gì nằm trong trí óc người làm thơ khiến hắn viết như thế, một trò chơi thú vị.
Khi làm thơ, cũng như hầu hết các nhà thơ, tôi bị cuốn hút vào một khoảnh khắc nóng bỏng với một tứ thơ nào đó. Cái gì thôi thúc tôi viết bài thơ, tôi không thể suy nghĩ rõ ràng, nhưng tôi cần thể hiện dòng ý thức của mình, càng nhanh càng tốt, và chính những điều này khiến bài thơ cuối cùng trở nên thú vị. Thơ Siêu thực, với “lối viết tự động” tuôn trào từ tiềm thức, vô thức, hay giấc mơ, đã đẩy thơ ca đến một biên vực mới lạ, đầy hào hứng.
Thơ là một hình thức cho phép người viết bày tỏ sự đau khổ, nỗi sợ hãi và lo lắng của mình mà không cần phải chuẩn xác, thậm chí không mạch lạc ngay lần viết thử đầu tiên. Thơ cho phép người viết thể hiện mọi điều nhỏ nhặt trong tâm trí mình trên giấy (hoặc màn hình máy tính), theo một cách tiếp cận đơn giản. Lúc đó, mối quan tâm duy nhất của nhà thơ là hiểu được suy nghĩ và xử lý cảm xúc của mình.
Sau khi làm xong một bài thơ, tôi thường có thói quen quên nó và đi làm chuyện khác, như ra ngoài đi bộ hoặc hẹn bạn bè đi quán uống cà phê. Sau vài ngày, đôi khi cả tháng, tôi xem lại bài thơ đó với một góc nhìn mới mẻ. Giờ đây, tôi có thể chỉnh sửa cho trau chuốt bài thơ, xóa bỏ sai sót, những sai sót tôi có thể mắc phải trong bản phác thảo đầu tiên lúc tôi viết nó trong cảm xúc nóng hổi.
Chỉnh sửa và biên tập xong, nhà thơ vẫn có thể giữ được giọng điệu nguyên thủy và duy trì đúng ý nghĩa của nó. Cảm xúc nằm trên giấy, nhưng bây giờ nhà thơ phải trau chuốt lại một số từ hoặc cụm từ nhất định để cảm xúc thực sự đến với người đọc.
Vẻ đẹp của thơ nằm ở chỗ hầu hết được sáng tác trong cơn đồng thiếp, ngẫu hứng, từ một phân cảnh đời sống buồn bã hoặc một nhận thức bất chợt tình cờ dẫn đến sự suy ngẫm, thậm chí một cơn phẫn nộ, giận dữ, một niềm vui sướng hạnh phúc dạt dào. Viết những câu chữ mạch lạc, như trong một bài nghị luận, đòi hỏi phải suy nghĩ và cẩn trọng nhiều hơn. Nhưng với thơ, mọi quy tắc ngữ pháp gần như bị bỏ qua, không có đường biên, không có giới hạn cho sự phá cách. Trong thơ, sẽ không hề chi nếu người đọc tác phẩm của bạn không hiểu rõ ý nghĩa bạn đang cố gắng truyền tải là gì. Thơ là một hình thức viết mà người đọc có thể chấp nhận việc rút ra kết luận của riêng mình và diễn giải tác phẩm theo cách riêng. Ở chừng mực nào đó, người đọc thơ tiếp nối sự sáng tạo từ người làm thơ, thậm chí phủ lấp người làm thơ.
Nói vậy bởi tôi đang nghĩ đến thơ của thi sĩ Nguyễn-hòa-Trước.
Thơ Nguyễn-hòa-Trước được đặc trưng bởi sự tập trung vào tính sáng tạo của ngôn ngữ, sự giải cấu trúc của cú pháp và ngữ pháp thông thường, đồng thời khám phá những hạn chế và khả năng cố hữu của chính ngôn ngữ.
Thơ ông thường sử dụng cú pháp rời rạc. Cấu trúc thơ phân mảnh, thách thức các hình thức biểu đạt tuyến tính và tự sự thông thường. Sự phân mảnh phản ánh sự hoài nghi đối với ý tưởng về một ý nghĩa mạch lạc, đồng thời nhấn mạnh quá trình đọc thơ như một tương tác tích cực với ngôn ngữ. Người đọc thơ cùng lúc sáng tạo với người làm thơ. Thơ có thể gãy đoạn, không dễ cảm nhận tức thời, không đi thẳng từ trái tim người làm thơ sang trái tim người đọc, nhưng đó là sự gãy đoạn có ý thức khơi gợi những khả thể mỹ học khác lạ trong một tương quan mở. Chính nhờ vậy, ngôn ngữ trong thơ ông không bị lệ thuộc vào cái nghĩa, tức là cái tư tưởng tiên nghiệm, để từ đó thơ thoát ra khỏi thân phận công cụ, không bị trì kéo bởi trọng lượng khôn kham của sứ mệnh, và trở thành cứu cánh của văn học, của mỹ học.
Là một thử nghiệm ngôn ngữ ở cấp độ vần/nhịp điệu, từ pháp, cú pháp và ngữ nghĩa, nhà thơ thường sáng tạo những từ mới, sử dụng cách chơi chữ và vận dụng ngôn ngữ để làm nổi bật những phẩm chất vật chất của nó. Sự đổi mới ngôn ngữ này nhằm mục đích phá vỡ các thói quen đọc và hiểu.
Bởi thơ Nguyễn-hòa-Trước xem ngôn ngữ như một đối tượng vật chất, có xu hướng khám phá tính chất vật thể của nó cũng như cách thức nó định hình nhận thức và trải nghiệm, nên nhà thơ quan tâm đến kết cấu, cú điệu và hình thức trực quan của các từ trên mặt dệt bài thơ cũng như bối cảnh văn hóa và xã hội ảnh hưởng đến việc sử dụng chúng.
Theo lời chính nhà thơ thì “Viết là để ‘ngôn ngữ hóa’ cảm xúc và tưởng tượng của mình; mà hai thứ này thì cứ thay đổi, biến chuyển tùy lúc. Do đó, chúng bắt buộc ‘ngôn từ’ phải tự biến hóa liên tục theo.”
3. Miêu thuật trong thơ
Thơ có cần miêu thuật một câu chuyện nào không? Nếu là thơ vô ngôn, mật ngôn – tôi đang nghĩ đến nhiều bài thơ của nhà thơ Hoàng Xuân Sơn – thì không hề hiện hữu một tự sự nào, mà chỉ là tập hợp những từ chẳng liên quan gì đến nhau, cũng chẳng có ý nghĩa hữu cơ nào. Là người viết, chúng ta có khao khát muốn chia sẻ với độc giả những câu chuyện đời, từ những chuyện vụn vặt, vớ vẩn chẳng đâu vào đâu cho đến chuyện nói lên thân phận con người trong dòng chảy cuồng nộ của cái-gọi-là kiếp nhân sinh.
Nếu là thiên tài như Nguyễn Du, bạn cứ nhẩn nha viết bài trường ca trên ba nghìn câu lục bát miêu thuật một câu chuyện éo le, ngang trái nhiều nước mắt. Nhưng thật may mắn cho chúng ta, những kẻ hậu bối tầm thường, vẫn có nhiều hình thức và loại hình văn bản khác nhau có thể mang lại trải nghiệm, hoàn cảnh hoặc tình huống cho cuộc sống. Bạn khao khát muốn kể ra sự thật đầy cảm xúc của câu chuyện hằng ấp ủ trong lòng, bạn chỉ cần ghi lại những khoảnh khắc nhỏ và biến chúng thành những khoảnh khắc quan trọng. Bạn kể một câu chuyện mà không cần trau chuốt xây dựng từng chi tiết nhỏ. Đó là nơi thơ phát huy tác dụng.
Thơ có thể ngắn hoặc dài, tùy ý bạn. Bài thơ Trái đất của thi sĩ Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc chỉ vẻn vẹn có sáu từ. Tôi cũng nghe truyền tụng thi sĩ Nguyễn Đức Sơn có một bài thơ tổng cộng ba từ “Hột thì le!” Nếu đấy là sự thật thì bài thơ của Sơn Núi có lẽ là bài thơ ngắn nhất lịch sử thơ ca! Tuy rất ngắn, nhưng cả hai bài thơ của hai thi sĩ (nếu có thể gọi đó là “bài” thơ) đều trọn vẹn “miêu thuật” một cảnh huống hay một cảm xúc nào đó. Chưa bao giờ người đọc đóng vai trò quan trọng hơn, bởi người đọc phải tiếp nối, lấp đầy những phần trắng, phần trống, hở, của bài thơ. Các thể thơ haiku hay hokku của Nhật Bản cũng có tác dụng tương tự, nó yêu cầu sự tương tác giữa văn bản thơ và người đọc để bật lên những điều thú vị nằm bên ngoài thơ.
Điều khiến thơ ca trở thành một loại hình nghệ thuật thiêng liêng là những câu chuyện được kể có rất ít lời. Kỳ thực, kể một câu chuyện lý thú dưới ba trăm từ là một tài năng ít người có được.
4. Hình thức bài thơ
Không có một hình thức nào được xem là đúng nhất cho một bài thơ. Tuy vậy, hình thức bài thơ cho phép người đọc có cái nhìn thoáng qua về dòng ý thức của nhà thơ. Mỗi đoạn thơ đều góp phần truyền tải một ý nghĩa, cảm xúc sâu sắc nào đó. Mỗi khổ thơ, cách ngắt dòng, dấu chấm hay dấu phẩy, những ký hiệu, thậm chí những đường nét như tranh vẽ đều được dụng công góp phần tạo nên bức tranh lớn hơn của bài thơ. Cách thức một bài thơ được định dạng nói lên nhiều điều về giọng điệu hoặc tâm trạng mà nhà thơ có thể đang cố gắng truyền tải. Nhà thơ có thể truyền tải một tư duy phân tán bằng cách sử dụng ngắt dòng và nhiều khoảng cách giữa các từ. Hoặc, nếu muốn bài thơ có vẻ sâu sắc hơn, bạn có thể làm thơ vần và mỗi khổ thơ có số dòng như nhau.
Không giống như văn xuôi, thơ yêu cầu chúng ta chú ý đến ngôn ngữ không chỉ từng câu, từng chữ mà còn từng âm tiết, từng âm thanh. Chính nhịp điệu và âm nhạc của thơ đòi hỏi chúng ta phải lắng nghe, mở rộng các giác quan và nhận thức cách chúng ta tiếp nhận ý nghĩa vào tâm trí mình.
Nhạc tính và những khoảng dừng (như những dấu lặng trong âm nhạc) được chủ ý xây dựng trong dòng ngắt quãng làm chúng ta chậm lại. Thơ yêu cầu chúng ta không nhảy về phía trước mà ngừng lại nuốt vào từng con chữ một để thẩm thấu trải nghiệm bàng bạc trong hồn thơ lai láng. Nó mời gọi sự hiện diện. Nó tiếc rẻ sao đêm chóng tàn.
Hình thức và nội dung không thể tách rời trong một bài thơ. Một bài thơ có ý nghĩa chính xác như những gì được biểu hiện trong hình thức của nó. Hình thức là nội dung và nội dung là hình thức. Điều này tương tự như tính lưỡng phân giữa tâm trí và thân thể con người.
Hình thức thơ của các nước Tây phương vào mấy chục năm giữa thế kỷ XX, nhất là thơ Mỹ, lâm vào tình trạng quá độ. Nó biến thành ký họa. Nhưng chỉ sau hai, ba thập kỷ tung hoành, nó lui vào bóng tối và ngày nay chỉ hiện hữu như một cước chú trong các giáo trình học đường cho các học sinh, sinh viên tìm hiểu về lịch sử thơ ca.
Sau khi bài thơ hoàn tất, nó có thể mang bất cứ ý nghĩa gì. Hãy để người đọc tự giải thích. Đó chính là điều khiến thơ trở thành một loại hình viết thú vị và bí ẩn. Thơ là phiên bản giấc mơ của nhà thơ. Qua thơ của mình, nhà thơ có thể tạo ra điều gì đó đẹp đẽ từ bóng tối mà họ có thể đang trải qua. Thơ mang lại cho người viết sự nhẹ nhõm và sự thú vị cho người đọc.
5. Mục đích của thơ là gì?
Đối với nhiều người, câu hỏi này thoạt đầu nghe có vẻ vớ vẩn, chẳng chút liên quan. Hoặc bạn thích đọc và làm thơ, hoặc thơ không có mối quan tâm đặc biệt nào đối với bạn, và trong cả hai trường hợp, lý luận trừu tượng về nó chỉ khiến bạn cảm thấy câu chuyện trở nên lạc đề. Nhưng ít nhất từ thế kỷ XVI bên Tây phương, các nhà thơ đã viết những chuyên luận về tầm mức quan trọng của thơ ca. Tập sách Apology for Poetry (Lời xin lỗi cho thơ ca) của Philip Sidney dựa trên khả năng của thơ trong việc hướng dẫn độc giả thông qua “niềm vui” và giúp họ đạt được các “thao tác đạo đức”. Vào đầu thế kỷ XIX, cuốn Defense of Poetry (Bảo vệ thơ ca) của thi hào Anh Percy Bysshe Shelley đưa ra lập thuyết dựa trên khả năng rèn luyện trí tưởng tượng của thơ. Theo ông, thơ ca “đánh thức và mở rộng tâm trí” con người.
Ngày nay, tính trung tâm văn hóa của thơ ca đã giảm sút đáng kể so với thời cách đây vài thế kỷ. Vào thời của họ, những thi sĩ như Shelley và Lord Byron có địa vị gần giống như các siêu sao nhạc pop, hay diễn viên điện ảnh thời nay. Nhưng những niềm vui và bài học từ thơ ca, nếu có, lại không giảm sút chút nào, và việc thể hiện rõ ràng lợi ích của thơ nhắc nhở chúng ta thơ là gì và chúng ta là ai, bởi thơ giúp chúng ta bộc lộ chính bản ngã mình.
Thơ hiện hữu trong mọi giai đoạn, mọi tâm trạng, mọi trải nghiệm của cuộc sống. Osip Mandelstam viết nguệch ngoạc những bài thơ trong ngục tù Gulag ở Siberia; Thanh Tâm Tuyền vừa lao động khổ dịch tại những trại tù cải tạo Bắc Việt vừa lẩm nhẩm những câu thơ trác tuyệt nhất của ông; Trần Mộng Tú vừa nấu cơm tối cho chồng con vừa bật ra trong đầu những vần thơ nền nã. Thơ đi cùng chúng ta, gặp chúng ta nơi chúng ta đang ở, dẫn chúng ta đến những bước tiếp theo. Trong cuộc đời tôi, thơ luôn là người bạn đồng hành. Tôi đã viết những bài thơ trong những khoảnh khắc đen tối nhất và hạnh phúc nhất đời mình.
Tôi nghĩ chừng đó thôi đã đủ cho thơ ca có một chỗ đứng trang trọng và viên mãn trong tâm hồn chúng ta.
6. Tại sao chúng ta làm thơ?
Khi chú ý đến ngôn ngữ, chúng ta thấy rằng ngôn ngữ mang ý nghĩa trong mối liên hệ với truyền thống, nhận thức, kinh nghiệm. Một từ có nghĩa là một cái gì đó khác so với các từ khác; cú điệu chỉ được hình thành trong mối quan hệ với các cú điệu và âm thanh khác. Thông thường, tâm-thân được xem là hai thực thể tách rời, riêng biệt, nhưng xuyên qua nhận thức của chính chúng ta, tâm-thân chỉ là những từ nói lên những phần trải nghiệm của chúng ta mà trên thực tế, không thể tách rời nhau. Tương tự, ý nghĩa của bài thơ xuất phát từ những mối quan hệ được hình thành giữa thế giới sống, giữa các từ trên trang giấy, mối quan hệ giữa chúng với nhau và với chính người đọc. Nghề đọc, nghề làm thơ, do đó, gắn liền với thực tế sống.
Dù đôi khi thấy khó khăn, chúng ta vẫn thấy được mối liên hệ giữa cái cụ thể và cái thiêng liêng, giữa cái nhỏ nhoi và cái to lớn, cái gì chúng ta có thể biết và cái gì chúng ta không thể lĩnh hội. Khi chú ý đến những mối quan hệ này, chúng ta cũng chú ý đến những khoảng trống giữa các sự vật, giữa các từ, cái không gian im lặng, cái không gian bí ẩn nơi những khả thể có thể xảy ra.
Không gian của khả năng này chính là không gian của năng lượng sáng tạo, của tia lửa thiêng lóe sáng lên trong một giây phút bất chợt, phù du. Và mặc dù chỉ đọng lại trong tâm tưởng ta không quá một sát-na, nó chỉ hướng cho ta đến không gian mà nó mời gọi, nơi sự sáng tạo thành hình. Đó là lúc thần trí tưởng tượng dịch chuyển từ não thùy bên trái sang não thùy bên phải, thâm nhập vào không gian của sáng tạo. Đây là không gian của giấc mơ, của tiềm thức, của thần thoại, của thần cảm. Và không gian đó cũng là không gian diễn ra sự thay đổi. Nó là không gian của tiếng khóc nguyên sơ nhất của chúng ta – nỗi đau buồn, chấn thương, niềm đau thể xác – tất cả đều là một phần của không gian này và thường nằm ngoài ngôn ngữ. Đó cũng là không gian của niềm vui lớn nhất, ham muốn tình dục, tình yêu, và là không gian của chính sự thiêng liêng, của sự thần bí và kính sợ.
Điều thú vị là những trải nghiệm cao độ nhất đưa ta ra ngoài ngôn ngữ. Và nghịch lý thay, sự chú ý rất chặt chẽ đến ngôn ngữ mà thơ ca tạo ra lại đưa chúng ta vào trạng thái phi ngôn ngữ. Nó là khoảng không trống rỗng giữa các từ, trí tuệ của phi ngôn ngữ, cái mà nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh gọi là “phút mong manh giữa những từ”.
“Hãy nói lên Sự Thật nhưng hãy nói một cách nghiêng lệch.” Nữ sĩ Emily Dickinson thốt câu nói nổi tiếng đó. Thường thì chính sự nghiêng lệch của một bài thơ có thể đi đến sự thật một cách chính xác hơn. Mọi sáng tác đều là một quá trình khám phá, đặc biệt là thơ. Chính hình thức này đã cho phép chúng ta buông bỏ những cách nói hoặc suy nghĩ có tính thiên kiến, định sẵn về sự vật và thử nghiệm những hình thức mới, ý nghĩa mới. Chúng ta học hỏi thông qua quá trình đọc và viết của chính mình.
Một lý do ta làm thơ là để tuôn ra từ sâu thẳm bản ngã một số suy nghĩ, cảm xúc, hiểu biết, câu hỏi, thậm chí một giai điệu nào đó mà bạn không biết là có trong bạn hoặc được ai trên thế giới nói đến hay chưa. (Hãy quay lại câu nói của Milan Kundera.) Các hình thức viết khác, như báo cáo khoa học, phân tích chính trị, thị trường chứng khoán, báo chí, phần nhiều cố gắng nắm bắt và thông hiểu những điều đã biết. Thơ là sự khai phóng cái gì đó trước đây chưa từng được biết đến và đặt nó vào thế giới hữu hình. Bạn viết để mời gọi điều đó, để biến cái vô minh thành một tập hợp những điều bất ngờ, và với may mắn, những điều không thể ngờ tới.
Hấp lực của thơ thu hút những gì sâu sắc và những khả thể của thơ. Thơ cung cấp khả năng mở rộng khẩu độ và tăng phạm vi tiếp cận. Chúng ta thường sống trong tình trạng chính mình bị che khuất khỏi những người khác. Những yếu tố cô lập mang tính xã hội: quy ước, phép lịch sự; và cá nhân: rụt rè, tự sợ hãi hoặc mù quáng, mệt mỏi. Bước vào một bài thơ là chấp nhận rủi ro, chấp nhận cho bản ngã chui ra khỏi cái vỏ bọc kín bưng xưa nay nó nằm bất động. Việc làm thơ sẽ loại bỏ mọi biện pháp bảo vệ, để xem những bước tiếp theo sẽ như thế nào. Thơ là thủ thuật của ngôn ngữ, trong đó nhà thơ vừa là ảo thuật gia vừa là khán giả. Làm thơ có nghĩa là khám phá những điều mới mẻ trong cảm xúc và ý tưởng. Thơ thúc đẩy sự biến đổi của hiện hữu. Trật tự cũ, dù thế nào chăng nữa, một bài thơ sẽ thay đổi nó.
Thay đổi như thế nào thì chẳng hề có một công thức hay phương trình cho ta tính toán những con số để xem đáp án sau cùng là gì. Mỗi nhà thơ là một cá thể con người. Tôi không giống Khế Iêm hay Vương Ngọc Minh, tôi không có sự táo bạo, liều lĩnh, “dám chơi dám chịu” như hai anh, và chắc chắn phong vị thơ tôi không giống thơ hai anh. Sự thật là mỗi nhà thơ có một phong khí (mượn chữ của nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc) khác nhau, không ai giống ai, và đó chính là nét đẹp của thơ ca.
Yêu cầu cốt lõi của nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng, về hình dạng, tính đặc biệt của trải nghiệm, được định vị bởi tâm hồn và trải nghiệm sống của người sáng tạo ra nó. Cái tôi là, tôi sẽ chẳng bao giờ biến đổi được. Và điều tôi luôn tâm niệm trong khi làm thơ là, “Hay mở cửa sổ rộng hơn vài phân cho thoải mái”.
Những gì chúng ta khao khát từ nghệ thuật là những điều còn thiếu sót trong cuộc sống mà chúng ta đang cố sống sao cho ý nghĩa. Luôn luôn thiếu một cái gì đó, và bởi thế việc sáng tạo nghệ thuật là vô tận. Nghệ thuật là con đường xuyên vũ trụ, không bao giờ đến đích. Người làm thơ, hơn ai hết vốn biết rõ điều đó, nên hắn chẳng bao giờ quan tâm đến sự thành công hay thất bại của mình.
Ngoài ra còn có vấn đề kết nối. Bạn không thể dựng một thi ảnh, một ẩn dụ, một câu chuyện, một cụm từ mà không nghiêng sâu hơn một chút vào thế giới được chia sẻ, mà không nhận ra rằng sự cô độc được cho là của bạn ở mọi điểm trong chu vi của nó đều chạm vào một số điểm khác. Sự hiện hữu của con người là một hữu-thể-tại-thế như triết gia Martin Heidegger nhận định. Bạn không thể đọc một bài thơ, nhất là một bài thơ hay, của người khác mà không nhận ra khuôn mặt của chính bạn trong trải nghiệm của họ. Nghệ thuật cho phép chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc, chính xác và trìu mến hơn những gì hiện hữu xung quanh. Và nó mở rộng điều đó, mở rộng chúng ta.
7. Tại sao chúng ta vẫn làm thơ, khi không còn ai đọc thơ nữa?
Hy vọng tôi đã trả lời thỏa đáng phần nào câu hỏi “Tại sao chúng ta làm thơ” do bạn đưa ra, nhưng hình như bạn chưa chịu buông tha cho tôi mà còn bồi thêm một câu hỏi khác hóc búa hơn.
Vâng, chúng ta đang sinh sống trong một thời đại mà mọi thứ di chuyển với tốc độ ánh sáng. Con người ngày càng bị cuốn hút vào cái “hố đen huyền tẫn” không có lối trở ra, và các thứ không thiết yếu cho cuộc sống tất bật với nhịp độ chóng mặt đều bị bỏ rơi lại đằng sau, thậm chí bị ném vào bãi phế thải. Việc đọc sách là một trong những thứ bị vứt bỏ không thương tiếc đó, nhất là đọc thơ, làm thơ.
Ngày nay con người chỉ đọc những thông tin trên mạng, mà nội dung những thông tin ấy không lưu lại trong bộ nhớ của mình quá mươi giây đồng hồ để nhường chỗ cho những thông tin khác khẩn thiết, nóng bỏng hơn. Thơ ca trong thời hiện đại không còn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống con người nữa, chẳng có gì quá đáng nếu ta xem nó như là một di chỉ của nền văn minh nhân loại đã qua, nó đã trở thành cổ tích.
Chưa hết, chúng ta còn đang sống trong một thời kỳ mà các cuộc khủng hoảng trên thế giới hình như liên tục tiếp diễn: chiến tranh; khủng hoảng kinh tế, chính trị; các băn khoăn về môi trường và biến đổi khí hậu; thậm chí cả những thảm họa từ thiên nhiên như động đất và thời tiết cũng được khuếch đại trong mối tương tác với một môi trường vốn từ lâu đã bị con người tha hóa biến đổi theo chiều hướng xấu. Toàn những vấn nạn to lớn cho con người và thế giới tương lai. Giữa bối cảnh đó, bạn có nghĩ rằng thơ ca và nghệ thuật nói chung có vai trò trong phản ứng của chúng ta trước những điều này và trong tiến trình biến đổi lớn hơn của xã hội?
Ở Việt Nam tôi thường nghe người ta tranh luận về sứ mệnh thơ ca, nhưng đó là thứ sứ mệnh làm thế nào để cõng “sông núi trên vai” (mà họ dịch là “mountain river on the shoulder” [sic]) hầu đưa đất nước tiến nhanh tiến mạnh lên Xã hội chủ nghĩa, chứ ít nghe ai nói về những vấn nạn của thế giới bạn nêu trên. Thực chất, ở ngoài này, từ lâu đã xảy ra những cuộc tranh luận về các vấn đề này.
Thế nhưng mục đích của nghệ thuật có phải là thực hiện những công việc to tát nằm ngoài sự tồn tại của chính nó không? Nghệ thuật có thay đổi điều gì bởi sự tồn tại hay không tồn tại của nó? Có nên để nghệ thuật khoác chiếc áo sứ mệnh nặng khôn kham lên thân thể ốm yếu, còm cõi đến thảm thương của nó không? Câu trả lời chung chung là, dù nhìn dưới lăng kính nào chăng nữa, tôi đều cho rằng nghệ thuật, nếu thực sự là nghệ thuật, phải là động lực hướng tới những cái tốt đẹp.
Nhưng nghệ thuật hoàn toàn mang tính vị lợi sẽ không phải nghệ thuật nữa, mà là quảng cáo hay tuyên truyền. Thơ Chế Lan Viên viết vào thời kỳ chiến tranh Nam-Bắc khích động thanh niên miền Bắc vào Nam chiến đấu “chống Mỹ cứu nước” là những văn bản tuyên truyền, không hơn không kém! Không phải thơ, thậm chí, không phải vè.
Nói cho cùng, nghệ thuật, nhất là nghệ thuật thơ ca, sau khi mọi chuyện ồn ỹ lắng đọng, vào cuối ngày chỉ để lại chút niềm vui nho nhỏ trong lòng người làm thơ và người đọc thơ. Một chút giao cảm nào đó dấy lên, và đó là hạnh phúc. Nhưng ngay cả niềm vui vô ích cũng không phải là tầm thường. Niềm vui chẳng có ý nghĩa trọng đại và không “đạt được” gì cả, nhưng lại là sự mở rộng thước đo không thể thiếu trong bất kỳ cuộc sống nào. Tại sao chúng ta muốn công lý, hay giảm bớt đau khổ, nếu không phải vì sự gia tăng hạnh phúc đơn giản mà nó mang lại?
Nghệ thuật không hẳn chỉ là vấn đề đáp ứng được cái đẹp, đem đến sự an ủi hay tìm lòng bình yên, mặc dù điều đó có thể xảy ra và có thể được hoan nghênh. Nghệ thuật cũng không hẳn để chỉnh đốn tính cách khiến cho cuộc sống tốt đẹp hơn, mặc dù điều đó đã xảy ra ở chừng mực nào đó trong lịch sử loài người, có thể đang xảy ra và tương lai vẫn có nhiều hứa hẹn. Tôi chỉ có thể nói một cách hết sức giản dị rằng nghệ thuật tốt là nghệ thuật có khả năng điều chỉnh lại tầm nhìn hầu làm giảm bớt sự loạn thị trong mắt chúng ta, giúp trái tim chúng ta đập cùng một nhịp đập với thiên nhiên và người bạn đồng hành. Điều này tôi không giải thích được mà chỉ cảm thấy trong mạch đập của mình khi đọc những bài thơ hay.
Tôi không nghĩ thơ ca sẽ biến mất khỏi mặt địa cầu, mặc dù ngày nay nó co cụm lại thành những cái “túi nhỏ”, trong đó các thi sĩ vẫn đắm chìm trong chữ nghĩa của mình để bày tỏ điều gì đó, không nhất thiết phải bày tỏ với ai, mà với chính mình. Những người làm thơ của thời đại hôm nay là những kẻ tự chọn đứng bên lề xu hướng thời đại, nhưng không chịu từ bỏ quan niệm cố hữu vốn xem mục đích của thơ ca bao gồm nhiều chức năng khác nhau, phản ánh khả năng thích ứng và sự phù hợp lâu dài của thơ trong cuộc sống.
Bạn đọc có thể đọc trực tiếp hoặc in ra giấy để đọc, đặt mua sách, báo đóng góp, thơ, tiểu luận xin Gửi về Diễn đàn hoặc Email về Ban Biên Tập Chân thành cảm ơn!
Thơ • Chủ trương & chủ bút Khế Iêm • Tháng 3 năm 2025 • Năm thứ 5 • Số 15 Email: baogiay2015@gmail.com www.thotanhinhthuc.com | www.thotanhinhthucviet.vn
SỐ ĐẶC BIỆT: VỀ QUÊ NHÀ
Lời Tòa Soạn
“XỔ HẾT ĐÓN TẾT”: BÙI CHÁT VÀ HÀNH TRÌNH ĐƯA NGHỆ THUẬT TRỞ VỀ ĐỜI SỐNG
Ngô Lực
TÂM TƯ CUỐI NĂM
THƠ VIỆT
Đào Quốc Minh
CÁNH ĐỒNG CỐ HƯƠNG
Anh Hồng
ĐỘC THOẠI
Nguyễn Đạt
KHÚC HÁT ĐƠN DƯƠNG
Tặng Lê Cung Bắc
n g . a n h a n h
ĐÃ LÀ MỘT PHIỀN TOÁI SỐ 18
Mão Xuyên
KẺ KHỞI NGUỒN
Đỗ Minh Tuấn
DUNG DANG DUNG DẺ
Thảo Phương
TIẾNG VỌNG
Tặng A
Mai Văn Phấn
BÂY GIỜ MƯA PHÙN
Phan Như
NÓN
Lê Hưng Tiến
NHỮNG CON CHỮ TÁI SINH
Nguyễn Sao Mai
MAI KHE SANH
Viết cho Huỳnh Bá Đức, quân nhân của nhóm ly khai chống chính phủ trong biến động miền Trung năm 1966, bị sát hại năm 1971, và Mai KheSanh của Đức thời cổ tích một chín năm bảy.
THIỀN SƯ
CON CHỮ
HOA NI CÔ
THƠ TÂN HÌNH THỨC
Hồ Đăng Thanh Ngọc
GÁC CHÂN
Phạm Quyên Chi
RỖNG 1
Huy Hùng
LÊN TIẾNG
Tặng nhà thơ Khế Iêm
Hường Thanh
CHỜ NGÀY MƯA
Nguyễn Thói Đời
CHÚNG MÌNH ƠI CHÚNG MÌNH
Nguyễn Thanh Sơn
BẢN TANGO CHO CUỘC TÌNH
Biển Bắc
AI … DỪA TƯƠI … HÔN (!?)
Sách Nhận Được
PGS TS Trần Hoài Anh
ĐỜI VÀ THƠ NGUYỄN BÍNH TRONG DI SẢN VĂN HỌC MIỀN NAM TRƯỚC 1975
PGS TS Trần Hoài Anh
Nguyễn Bính là một thi tài thi ca xuất hiện không nhiều trong nền văn học dân tộc. Ông lặng lẽ sống, lặng lẽ làm thơ, lặng lẽ sáng tạo theo cách riêng của mình. Nguyễn Bính không bị cuốn cào sự ồn ào của những trào lưu văn hóa phương Tây đang là lực hút khá mạnh đối với các thi nhân cùng thời và âm thầm làm một kẻ lội ngược dòng, tắm mình trong dòng sông thi ca mang điệu hồn văn hóa dân tộc với âm hưởng ca dao “quê mùa”, ”chân chất” để làm nên những viện ngọc thi ca mà trải qua bao lớp bụi thời gian, với những biến thiên của bao hệ lụy xã hội vẫn không làm mờ đi mà ngược lại càng làm rực sáng hơn.
DaDa hay Dadaism (tiếng Pháp, từ DaDa, từ trẻ con dùng để chỉ con ngựa). Phong trào hư vô trong nghệ thuật phát triển chủ yếu ở Pháp, Thụy Sĩ và Đức từ khoảng năm 1916 đến khoảng năm 1920 (và sau đó) và dựa trên các nguyên tắc của sự vô lý cố ý, vô chính phủ và chủ nghĩa hoài nghi và sự từ chối các quy luật về cái đẹp và tổ chức xã hội.
Thơ Dada là bất kỳ loại thơ nào được sáng tác như một phần hoặc bắt chước phong trào Dada, có nguồn gốc từ đầu thế kỷ 20. Thơ Dada sử dụng những từ vô nghĩa, buộc người đọc phải đặt câu hỏi về những gì họ đang đọc và tự nghĩ ra ý nghĩa của chúng cho những từ trên trang giay. Những bài thơ này thường được sáng tác bằng cách sử dụng sự ngẫu nhiên, chẳng hạn như lấy từ ra khỏi bao, ném một loạt các mẩu báo ngẫu nhiên lên bàn, v.v.1.
Phong trào Dada và thơ Dada đã có ảnh hưởng to lớn đến nhiều phong trào nghệ thuật khác nhau trong gần một thế kỷ kể từ khi phong trào này tan rã. Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét một số lịch sử đằng sau phong trào Dada, các kỹ thuật mà các nhà thơ Dada sử dụng và một số khía cạnh khác của phong trào nghệ thuật và văn học có ảnh hưởng này. Vì vậy, hãy cùng xem xét thơ Dada và xem chúng ta có thể học được gì!
Tài khoản được chấp nhận rộng rãi nhất cho tên của phong trào được tổ chức vào năm 1916 tại Hugo Ball’s Cabaret (CAFE) Voltaire ở Zurich, trong đó một con dao giấy được đưa vào từ điển Pháp-Đức. Trong số các DADA, từ phẫu thuật cho các sáng tạo chống lại và các hoạt động phản ứng của họ là do sự ghê tởm của các giá trị tư sản và tuyệt vọng đối với chiến tranh thế giới I .
Tại Hoa Kỳ, phong trào này tập trung tại New York tại phòng trưng bày ‘291’ của Alfred Stieglitz và tại xưởng vẽ của Walter Arensbergs. Các hoạt động giống như Dada phát sinh độc lập nhưng song song với những hoạt động ở Zurich, được thực hiện bởi các nghệ sĩ chủ yếu là nghệ sĩ thị giác như Man Ray và Francis Picabia. Thông qua nghệ thuật của họ và thông qua các ấn phẩm như The Blind Man, Rongwrong và New York Dada, các nghệ sĩ đã cố gắng phá bỏ các tiêu chuẩn thẩm mỹ hiện tại. Khi đi lại giữa Hoa Kỳ và Châu Âu, Picabia đã trở thành cầu nối giữa các nhóm Dada ở Thành phố New York, Zurich và Paris, tạp chí Dada 291 của ông đã được xuất bản tại Barcelona, Thành phố New York, Zurich và Paris từ năm 1917 đến năm 1924.
Năm 1917, phong trào Dada đã được chuyển đến Berlin, nơi nó mang tính chính trị hơn. Các nghệ sĩ Berlin cũng đã phát hành các ấn phẩm Dada như Club Dada, Der Dada, Jedermann sein eigner Fussball (Mỗi người đều có một quả bóng thực phẩm của riêng mình) và Dada Almanach. Ở Paris, Dada đã có sự nhấn mạnh về mặt văn học dưới thời một trong những người sáng lập ra nó, nhà thơ Tristan Tzara. Đáng chú ý nhất trong số các tập san và bài phê bình của Dada là Litterature (xuất bản năm 1919-24), trong đó có các bài viết của Andre Breton, Louis Aragon, Philippe Soupautl và Paul Eluard. Tuy nhiên, sau năm 1922, Dada đã mờ nhạt và nhiều người theo chủ nghĩa Dada bắt đầu quan tâm đến chủ nghĩa siêu thực.
WHAT IS THE DADA ?
DaDa or Dadaism( French,from DaDa, child’s word for a horse). Nihilistic movement in the arts that flourished chiefly in France, Swiszerland, and Germany from about 1916 to about 1920( and later-ed) and that was based on the principles of deliberate irrationality anarchy and cynicism and the rejection of laws of beauty and social organization. ( DaDa poetry is any poetry produced as part of or in mimicry of the Dada movement, which originated in the early 20th century. Dada poems use nonsense words, which forces readers to question what they are reading and make up their meanings for the words on the page. These poems are usually made utilizing random chance, such as pulling words out of a sack, tossing a random assortment of newspaper clippings onto a table, etc.. )
The most widely accepted account for the name of the movement was held in 1916 at Hugo Ball’s Cabaret (Cafe) Voltaire in Zurich, in which a paper knife was included in the French-German dictionary. Among the DADA, from surgery for creations against and their reaction activities are due to the disgust of bourgeois values and despair for World War I.
In the United States the movement was centered in New York at Alfred Stieglitz’s gallery ‘291’ and at the studio of the Walter Arensbergs. Dada like activities arising independently but paralleling those in Zurich, were engaged in by such chiefly visual artists as Man Ray and Francis Picabia. Both through their art and through such publications as The Blind Man, Rongwrong and New York Dada, the artists attemted to demolish current aesthetic standards. Traveling between the United States and Europe, Picabia became a link between the Dada groups in New York City, Zurich and Paris, his Dada periodical 291, was published in Barcelona, Neu York City, Zurich and Paris from 1917 through 1924.
In 1917 the Dada movement was transnitted to Berlin, where it took on a more political character. The Berlin artists,too, issued Dada publications Club Dada, Der Dada, Jedermann sein eigner Fussball (Every man His Own Foodball) and Dada Almanach. In Paris Dada took on a literary emphasis under one of its founnders, the poet Tristan Tzara. Most notable among Dada pamphlets and reviews was Litterature( published 1919-24), which contained writing by Andre Breton ,Louis Aragon, Philippe Soupautl and Paul Eluard. After 1922 however Dada faded and many Dadaists grew interested in surrealism.
NHÌN VÀO THƠ DADA
Các giai đoạn nghệ thuật bắt nguồn từ đâu đó. Chúng thường là một dạng phản ứng đối với các hình thức nghệ thuật trước đó và thường đóng vai trò là sự phê phán đối với một số hình thức trước đó, và phong trào Dada là một trong những phong trào như vậy. Phong trào này nói chung bắt đầu vào khoảng năm 1916 và nhanh chóng lan rộng ra nhiều quốc gia khác nhau, và nó bắt nguồn từ phản ứng chống lại Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cuộc chiến tranh cụ thể đó là cuộc chiến tranh hiện đại thực sự đầu tiên và nó dẫn đến những nỗi kinh hoàng chưa từng thấy trước đây.
Khi chiến tranh bắt đầu và cuối cùng kết thúc, phong trào Dada vẫn tiếp tục và cuối cùng đạt đến đỉnh cao và cuối cùng bắt đầu suy yếu vào giữa những năm 1920.
Ý tưởng chung đằng sau phong trào Dada là phê phán các khía cạnh của nghệ thuật đã trở nên phổ biến trong thời đại hiện đại, chẳng hạn như logic và lý trí. Thay vào đó, hình thức mới này tập trung vào việc thể hiện tình cảm phi lý, chống lại giai cấp tư sản và chấp nhận sự vô nghĩa.
A LOOK AT DADA
Artistic periods arise from somewhere. They are usually some kind of a response to previous forms of art and often serve as a critique of some kind of those earlier forms, and the Dada movement is one of those movements. The movement in general started around 1916 and quickly spread to various countries, and it originated as a reaction against the First World War. That particular war was the first truly modern war, and it led to horrors the likes of which had never been seen before.
As the war started and eventually came to an end, the Dada movement continued and eventually reached its height and eventually started to wane by the mid-1920s.
The general idea behind the Dada movement was to critique aspects of art that had become commonplace during the modern era, such as logic and reason. This new form was instead focused on an expression of the irrational, anti-bourgeois sentiment, and an embracing of nonsense.)
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA THƠ DADA
Thơ Dada và phong trào nói chung bắt nguồn từ Zürich, Thụ y Sĩ trong Thế chiến thứ nhất năm 1916. Nhiều nghệ sĩ trở thành thành viên đầu tiên của phong trào Dada là những người tị nạn từ các quốc gia khác bị ảnh hưởng bởi chiến tranh.
Những nhà thơ và nghệ sĩ Dada này đã tụ tập tại một hộp đêm trong thành phố có tên là Cabaret Voltaire, được thành lập bởi một số thành viên cốt cán nhất của phong trào Dada, Hugo Ball và Emmy Hennings.
Câu lạc bộ đêm này là nơi biểu diễn nhiều tác phẩm thử nghiệm, chẳng hạn như thơ ca, sân khấu và âm nhạc. Cũng chính tại địa điểm này mà tên gọi của thuật ngữ này bắt nguồn, và nó được gọi là “Dada” như một cách cố tình gợi lên một thuật ngữ vô nghĩa hơn, không có ý nghĩa xác định hoặc từ nguyên nào có thể truy tìm được. Bản thân cái tên này là một phần của sự phê phán văn hóa vốn là phong trào Dada nói chung. Đây cũng là nơi tạp chí đầu tiên dành riêng cho phong trào này, có tên đơn giản là Dada, được xuất bản lần đầu tiên.
Nhiều nhà thơ và nhà văn Dada đầu tiên sẽ bắt đầu sự nghiệp của họ tại địa điểm này, và nhiều nhân vật có ảnh hưởng trong số đó sẽ được thảo luận chi tiết hơn ở bên dưới. Tuy nhiên, sau khi phong trào này bắt đầu, nó bắt đầu lan rộng sang các quốc gia và địa điểm khác, chẳng hạn như Berlin, Paris và Thành phố New York. Mỗi địa điểm này đều có cách áp dụng ý tưởng riêng biệt, nhưng nhìn chung tất cả đều thống nhất trong một tâm lý phản kháng, mong muốn thử nghiệm và động thái chung hướng tới tâm lý phản nghệ thuật.
Phong trào này đạt đến đỉnh cao vào đầu những năm 1920, nhưng bắt đầu suy yếu khi thập kỷ tiếp theo trôi qua. Thơ Dada và các hình thức nghệ thuật khác có thể đã vô cùng vi phạm khi chúng mới được phát triển, nhưng phong trào này bắt đầu được chấp nhận rộng rãi và mất đi một số nét thử nghiệm và gây sốc.
Nhiều thành viên của phong trào Dada đã tiếp tục hoạt động trong các lĩnh vực khác và tiếp tục có ảnh hưởng, chẳng hạn như trong việc thành lập các phong trào nghệ thuật khác như chủ nghĩa siêu thực. Tuy nhiên, mặc dù phong trào Dada đã kết thúc, thơ và nghệ thuật Dada vẫn tiếp tục có tác động to lớn trong suốt thế kỷ 20. Nhiều nghệ sĩ đã lấy cảm hứng từ những người theo chủ nghĩa Dada và đã đạt được thành công đáng kể trên con đường của riêng họ. Ngay cả nhiều hình thức nghệ thuật đương đại hơn, chẳng hạn như thơ kỹ thuật số và lời nói, xuất hiện muộn hơn nhiều, cũng có thể bắt nguồn từ đó
HISTORICAL BACKGROUND AND INFLUENCE OF DADA POETRY
Dada poetry and the movement in general saw its origins in Zürich, Switzerland during the First World War in 1916. Many of the artists who would become early members of the Dadaist movement were refugees from other countries that had been affected by the war.
These Dada poets and artists gathered in a nightclub in th8e city called Cabaret Voltaire which was founded by some of the most integral members of the Dada movement, Hugo Ball and Emmy Hennings.
This nightclub was a place to perform a variety of experimental pieces, such as poetry, theater, and music. It was also in this location where the name for the term originated, and it was called “Dada” as a means of deliberately evoking a more nonsense term that did not have a definite or etymological meaning that could be traced. The name itself was part of the cultural critique that was the Dada movement in general. It was also here where the first journal dedicated to the movement, simply titled Dada, was first published
Many of the earliest Dada poets and writers would have their start in this location, and many of those influential figures will be discussed in more detail below. However, after the origins of this movement, it started to spread to other countries and locations, such as Berlin, Paris, and New York City. Each of these locations was distinct in their application of ideas, but they were all generally unified in a more protest-oriented mentality, a desire for experimentation, and a general move towards an anti-art mentality.
The movement would reach its height in the early 1920s, but it started to weaken as the decade continued on. Dada poetry and other art forms may have been immensely transgressive when they were first developed, but the movement started to see mainstream acceptance and lost some of its experimental and shocking edge.
Many members of the Dada movement went on to work in other areas and continued to be influential, such as in the founding of other art movements like surrealism. However, even though the Dada movement came to an end, Dada poetry and art would go on to have a massive impact throughout the 20th century. Numerous artists were inspired by the Dadaists and went on to considerable success in their own avenues. Even more contemporary forms of art, such as digital poetry and spoken word, which came far later, can trace so)
Điều cuối cùng Omar Alshujery nhớ khi nhìn thấy những quả bom đầu tiên của Mỹ rung chuyển Baghdad năm 2003 là một “ánh sáng khổng lồ”.
“Tôi nhìn thấy một ánh sáng khổng lồ”, Omar kể, “và tôi hét lên, ‘Núp đi!’ Sau đó, mặt đất rung chuyển”.
Alshujery, khi đó mới 12 tuổi, hét lên khi sức mạnh của vụ nổ đập mạnh cậu vào tường.
Vài giây sau, khi làn sóng bom tiếp theo hoành hành bên ngoài những bức tường thạch cao mỏng manh đang ôm Alshujery, cha mẹ và năm người anh em của cậu, điện đã mất, nhấn chìm ngôi nhà thời thơ ấu của Alshujery trong bóng tối – một bóng tối cuối cùng sẽ nuốt chửng ông nội và các chú của cậu.
Bất chấp các báo cáo, chiến tranh không phải là một điều đẹp đẽ. Nó không vô trùng cũng không đẹp. Nó phức tạp và quanh co; nó đẫm máu và hỗn loạn; chiến tranh là một con quái thú bẩn thỉu, hung dữ, có hàng ngàn răng, và nó ăn thịt cả người Iraq và người Mỹ.
Số người chết thay đổi. Vào thời điểm chiến tranh Iraq “kết thúc” vào ngày 18 tháng 12 năm 2011, hãng thông tấn Associated Press đã tính toán có 100.600 thương vong từ tháng 3 năm 2003 đến tháng 4 năm 2009, nhưng một báo cáo độc lập của Anh năm 2007 đưa ra con số đó gần 1,2 triệu chỉ riêng từ tháng 3 năm 2003 đến tháng 8 năm 2007. Cả hai con số đều không tính đến thương vong về tinh thần của những người sống sót như Alshujery – một người sống sót sau cuộc chiến giữa những kẻ thù mà cả hai đều tuyên bố gia đình anh là thương vong.
Trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược, Ashuljery đã chứng kiến Sư đoàn 3 của Quân đội Hoa Kỳ tràn vào các đường phố Baghdad, mặt đất rung chuyển dưới sức nặng của cuộc tấn công dữ dội.
“Chúng tôi nghe thấy tiếng máy bay F-16 và xe Humvee”, Alshujery nói. “Sau đó, các chú và ông tôi khóc vì họ biết đất nước chúng tôi đã bị phá hủy”.
Baghdad rơi vào hỗn loạn sau cuộc xâm lược. Đường phố ngổn ngang xác chết, và thành phố bốc mùi thịt thối rữa. Alshujery và 6 triệu cư dân khác của Baghdad đã gần bảy năm không có điện và nước sạch.
“Cuộc sống trước chiến tranh rất tốt”, Omar nói. “Nó rất yên bình. Chúng tôi có an ninh. Chúng tôi làm việc, kinh doanh và đi du lịch nước ngoài. Mọi thứ đều tốt đẹp”.
Sau cuộc xâm lược, tất cả đã thay đổi. Đất nước rơi vào hỗn loạn, và thường dân Iraq bị bắt trong cuộc đấu súng giữa quân đội Mỹ và quân đội Iraq, bọn trộm cắp và kẻ cướp, và các chiến binh kháng chiến Iraq – còn được gọi là “những kẻ khủng bố”.
Đột nhiên, Baghdad – “Món quà của Chúa” trong bản dịch – trở thành nơi nguy hiểm nhất trên trái đất, và mỗi ngày đều đầy rẫy những nỗi kinh hoàng mới đối với Omar và gia đình anh.
Năm 2005, quân đội Mỹ đã xông vào nhà họ vào giữa đêm và cố gắng cướp gia đình anh bằng súng. Khi Omar và người thân từ chối đưa tiền cho quân đội, quân đội Mỹ đã bắt giữ cha anh.
Một năm sau, khi Omar 16 tuổi, anh bị bắt cóc bằng súng lần thứ hai, lần này là bởi người Iraq.
Omar và chú của anh, Saeed, đang lái xe qua sa mạc gần Anbar, Iraq, thì những người đàn ông có vũ trang buộc xe của anh phải dừng lại. Sau khi bước ra khỏi xe, họ bị đánh đập, trói và ném vào cốp xe BMW màu xanh lá cây sẫm đời 1993 trong cái nóng 104 độ.
Sau khi lái xe gần nửa giờ, những tay súng dừng xe và lôi Omar và chú của anh ra khỏi cốp xe. Một trong những tay súng chĩa súng lục vào đầu Omar và ra lệnh cho anh cúi đầu xuống và nhìn chằm chằm xuống đất.
“Lúc đó, tôi không sợ hãi gì cả”, Omar kể lại. “Tôi chỉ thấy toàn là sợ hãi. Tôi chấp nhận mọi chuyện như vậy và tôi nói, ‘Được rồi, tôi sẽ chết.’ Tôi không nhắm mắt lại. Tôi nghĩ, ‘Viên đạn có xuyên qua được không?’ Và, ‘liệu tôi có nhìn thấy máu của mình trước khi chết không?'”
Omar và gia đình cuối cùng đã chạy trốn đến Syria vào năm 2006 sau vụ bắt cóc và giết hại chú và ông của anh.
“Chúng tôi đã quá đủ rồi. Tôi đã chứng kiến những người đàn ông có vũ trang bắt cóc chú tôi là Salem và ông tôi là Taha đã mất tích hơn một năm”, Omar nói. “Sau khi phát hiện ra thi thể của Salam với hơn 30 lỗ đạn, cuối cùng chúng tôi đã tìm thấy nó. Chúng tôi đã vượt biên giới vào Syria vào đêm hôm đó”.
Anh đã sống ở Syria gần hai năm trước khi Tổ chức Di cư Quốc tế giúp Omar và gia đình anh chuyển đến Hoa Kỳ vào năm 2008.
“Chiến tranh đã cướp đi tất cả và không để lại cho chúng tôi bất kỳ thứ gì”, Omar nói. “Nó đã phá hủy nhà cửa, công việc kinh doanh và cuộc sống của chúng tôi”.
Mặc dù chiến tranh đã cướp đi tất cả những gì của Alshujery, chàng trai 22 tuổi này vẫn giữ được nhà. Ngày nay, Omar sống chung trong một căn hộ khiêm tốn ở Portland với mẹ, cha, năm anh trai và chị gái.
Anh đang theo học ngành kỹ thuật tại Cao đẳng Cộng đồng Portland, một tấm bằng mà anh mơ ước một ngày nào đó sẽ được sử dụng khi trở về nhà ở Iraq – sau chiến tranh và sự chiếm đóng – sau bạo lực và đổ máu, khi đất nước anh có thể xây dựng lại – từng viên gạch và từng cuộc sống.
“Tôi nhìn lại quá khứ, và tôi thấy nỗi đau và bóng tối”, Omar nói. “Cuộc đời tôi là một đêm với những vì sao và một ánh sáng dẫn lối tôi vượt qua bóng tối. Tôi đã mất những vì sao. Nhưng tôi có ánh sáng, và những vì sao ở trong tim tôi”.
The last thing Omar Alshujery remembers seeing when the first American bombs rocked Baghdad in 2003 was a “huge light.”
“I saw a huge light,” Omar says, “and I screamed, ‘Take cover!’ Then, the earth shook.”
Alshujery, then only 12, screamed as the force of the explosion slammed him against the wall.
Seconds later, as the next wave of bombs raged outside the thin plaster walls that cradled Alshujery, his parents, and his five brothers, the power went out, engulfing Alshujery’s childhood home in darkness-a darkness that would eventually swallow his grandfather and his uncles.
Despite the reports, war is not a pretty thing. It’s neither sterile nor photogenic. It’s complex and convoluted; it’s bloody and chaotic; war is a filthy, ravenous, thousand-toothed beast, and it feasted on Iraqi and American alike.
The death tolls vary. By the time the Iraq war “ended” on Dec. 18, 2011, the Associated Press calculated 100,600 casualties between March 2003 and April 2009, but an independent 2007 British report placed that number closer to 1.2 million between March 2003 and August 2007 alone. What neither figure accounts for are the casualties of soul suffered by survivors like Alshujery-a survivor of a war between enemies who both claimed his family as casualties.
During the first stages of the invasion, Ashuljery watched as the U.S. Army’s Third Division swarmed the streets of Baghdad, the ground trembling under the weight of the onslaught.
“We heard the F-16s and the Humvees,” Alshujery says. “Then my uncles and grandpa cried because they knew our country was gone-destroyed.”
Baghdad fell into chaos after the invasion. The streets were littered with dead bodies, and the city reeked of putrefied flesh. Alshujery and Baghdad’s 6 million other residents went nearly seven years without electricity and running water.
“Life was good before the war,” Omar says. “It was peaceful. We had security. We were working, doing business, and traveling outside the country. Everything was good.”
After the invasion, all of that changed. The country fell into chaos, and Iraqi civilians were caught in the crossfire of the Americans and Iraqi soldiers, the thieves and bandits, and the Iraqi resistance fighters-A.K.A. “the terrorists.”
Suddenly, Baghdad-“God’s Gift” in translation-was the most dangerous place on earth, and each day was fraught with new horrors for Omar and his family.
In 2005, American soldiers stormed their home in the middle of the night and attempted to rob his family at gunpoint. When Omar and his relatives refused to give the soldiers their money, the Americans arrested his father.
One year later, when Omar was 16, he was kidnapped at gunpoint for the second time, this time by Iraqis.
Omar and his uncle, Saeed, were driving through the desert near Anbar, Iraq, when armed men forced his vehicle to pull over. After stepping out of the car, they were beaten, bound and tossed into the trunk of a dark green 1993 BMW in 104-degree heat.
After driving for nearly half-an-hour, the gunmen stopped the car and dragged Omar and his uncle out of the trunk. One of the gunmen aimed a pistol at Omar’s head and commanded him to put his head down and stare at the ground.
“In that moment, I had no fear,” Omar says. “It was just zero. I accepted it as it is, and I said, ‘O.K., I’m going to die.’ I didn’t close my eyes. I was thinking, ‘Will the bullet go through or not?’ And, ‘will I see my blood before I die?'”
Omar and his family eventually fled to Syria in 2006 after the kidnapping and murder of his uncles and grandfather.
“We had enough. I watched as armed men kidnapped my uncle Salem and my grandfather Taha had been missing for more than a year,” Omar says. “After discovering Salam’s body with more than 30 bullet holes, we finally had it. We crossed the border into Syria that night.”
He lived in Syria for nearly two years before the International Organization of Migration helped Omar and his family relocate to the United States in 2008.
“The war took everything and left us with nothing, Omar says. “It destroyed our homes, our businesses and our lives.”
Despite all that the war took from Alshujery, the 22-year-old retains home. Today, Omar shares a modest Portland apartment with his mother, his father, his five brothers and his sister.
He’s studying engineering at Portland Community College, a degree he dreams of one day using by returning home to Iraq-after the war and the occupation-after the violence and the bloodshed, when his country can rebuilt-brick by brick and life by life.
“I look through the past, and I see pain and darkness,” Omar says. “My life was a night with stars and a light to guide me through the darkness. I lost the stars. But I have the light, and the stars are in my heart.”
The Unique Forms and Functions of Indigenous Ghanaian Performing and Verbal Arts
Nghệ thuật biểu diễn là nghệ thuật được chơi hoặc trình diễn chỉ tồn tại trong một dòng thời gian. Hình thức nghệ thuật này thể hiện rõ trong mọi hoạt động mà người Ghana bản địa thực hiện, từ việc rửa mặt ngay khi vừa rời khỏi giường, cho đến các hoạt động hàng ngày của họ, cho đến khi họ đi ngủ. Ví dụ về các hình thức nghệ thuật biểu diễn được người Ghana bản địa thực hành và sử dụng trong các hoạt động hàng ngày của họ bao gồm âm nhạc, khiêu vũ và kịch.
Mặt khác, nghệ thuật ngôn từ là nghệ thuật được thực hiện bằng miệng có hoặc không có cử chỉ cơ thể. Chúng thường được nói bằng miệng. Nghệ thuật ngôn từ bản địa Ghana bao gồm văn hóa dân gian, truyện kể, tên gọi, bài ca ai điếu, thơ ca, v.v.
Âm nhạc
Âm nhạc thấm nhuần và đi kèm với tất cả các hoạt động của người Ghana bản địa như săn bắn, đánh cá, làm nông, buôn bán, v.v. Âm nhạc được chơi trong các lễ hội, nghi lễ, lễ cưới, lễ tang, nghi lễ dậy thì, lễ đặt tên và lễ ngoài trời, nghi lễ tang lễ, v.v. Họ đóng nhiều vai trò khác nhau như giải trí, thờ cúng các vị thần, tôn kính và mời tổ tiên, v.v. Nhiều nhạc cụ khác nhau được sử dụng để sáng tác và chơi nhạc. Chúng bao gồm nhạc cụ dây (đàn hites, đàn lia), nhạc cụ hơi (sáo, kèn), nhạc cụ tự phát ra âm thanh (trống, lục lạc) v.v. Âm nhạc được biểu diễn đặc biệt tại các cung điện hoàng gia, quảng trường thị trấn, sân trong, công viên và đường phố. Lời bài hát thể hiện niềm tin tôn giáo và văn hóa của người Ghana bản địa, cũng như hệ tư tưởng, chuẩn mực và giá trị của họ. Chúng hoàn toàn mang tính giáo dục và được sử dụng như một kênh để hướng dẫn đạo đức.
Khiêu vũ
Khiêu vũ, giống như âm nhạc, đóng vai trò sống động trong cuộc sống của người bản địa Ghana. Chúng dao động từ những chuyển động duyên dáng đến những chuyển động rất mạnh mẽ tùy thuộc vào phong cách khiêu vũ và dịp và bối cảnh mà điệu nhảy được biểu diễn. Một điệu nhảy được biểu diễn tại các buổi lễ đặt tên, nghi lễ tang lễ, lễ hội, hoạt động tôn giáo, buổi kể chuyện, v.v. Một số động tác khiêu vũ mang tính biểu tượng và mang những thông điệp quan trọng. Ví dụ, điệu nhảy được biểu diễn tại các lễ hội, lễ hội, buổi biểu diễn nghi lễ và nghi lễ của tổ tiên bởi một linh mục truyền thống và sự tham dự của ông được hiểu là thông điệp từ tổ tiên đến mọi người, đặc biệt là nhà vua. Những điệu khác chỉ đơn thuần là để giải trí, giải tỏa căng thẳng và tận hưởng bản thân.
Kịch
Kịch của người bản địa Ghana xuất hiện ở hầu hết mọi nơi như chợ và quảng trường công cộng, trang trại, quán bar, nơi họp mặt, v.v. Nó được biểu diễn trong các buổi kể chuyện, nghi lễ nhập môn và nghi lễ của tổ tiên để hướng dẫn mọi người về luật pháp, chuẩn mực, điều cấm kỵ và tín ngưỡng của người dân. Chúng thường minh họa các chủ đề liên quan đến hậu quả của việc không tuân theo luật pháp và truyền thống do tổ tiên truyền lại. Những bài học đạo đức về cách sống tốt đẹp được khắc họa trong các buổi biểu diễn kịch.
Văn hóa dân gian
Đó là những câu chuyện không được viết ra hoặc truyền miệng mô tả văn hóa của một nhóm hoặc cộng đồng. Văn hóa dân gian bản địa Ghana kể lại các hoạt động và sự kiện của tổ tiên chúng ta và nguồn gốc của các luật lệ, giá trị và chuẩn mực xã hội của chúng ta. Chúng là phương tiện mà những người trẻ tuổi trong xã hội làm quen với di sản văn hóa của chính họ. Những câu chuyện này được coi là có thật và được coi trọng hết mực.
Truyện
Đó là những câu chuyện được kể để giải trí và giáo dục mọi người. Chúng thường là hư cấu với những nhân vật không có thật. Đôi khi chúng đầy rẫy những lời phóng đại và dối trá mặc dù chúng được sử dụng để làm nổi bật những tai ương khi phá vỡ các quy tắc, phong tục và điều cấm kỵ đã đặt ra của tổ tiên trong các cộng đồng người Ghana bản địa.
Tưởng nhớ
Đây là những lời ca ngợi dành cho một vị thần, tổ tiên, vua hoặc nhân vật quan trọng kể lại những thành tựu, tính cách và cái tôi của họ. Chúng được hét lên với các vị vua và những nhân vật quan trọng trong những dịp quan trọng như durbar, lễ hội và nghi lễ trước khi họ ngồi vào chỗ của mình tại một chức năng. Trong các nghi lễ mà tổ tiên phải được mời, tên của họ được vang lên. Người Ghana bản địa tin rằng làm như vậy sẽ thu hút sự ưu ái, thiện chí, phước lành và sự giúp đỡ từ tổ tiên.
Tục ngữ
Chúng là những câu nói khôn ngoan ngắn gọn minh họa cho lòng dũng cảm của tổ tiên. Chúng giải thích luật lệ, chuẩn mực và ý tưởng của người Ghana bản địa. Chúng được kể lại trong các lễ hội, nghi lễ và vào những lúc kể chuyện như một hình thức giáo dục đạo đức, văn hóa và xã hội cho người dân.
Bài điếu văn
Chúng là những lời được sáng tác cho người đã khuất. Chúng được kể lại để an ủi và xoa dịu gia đình đau buồn và những người thông cảm trong các buổi lễ tang của những người thân yêu của họ trong các cộng đồng người Ghana bản địa. Chúng giáo dục chúng ta về sự ngắn ngủi của cuộc sống và sự gian ác được gán cho cái chết, và hy vọng rằng chúng ta phải sống lại. Trong hầu hết các trường hợp, các nhạc cụ đi kèm với những bài điếu văn này.
Performing arts are the arts that are played or performed which exists only in a stream of time. This form of arts is evident in every activity that the indigenous Ghanaian performs, from the washing of the face right from bed, through undertakings of his/her daily activities, to the time he/she retires to bed. Examples of the performing art forms practiced and used by the indigenous Ghanaians in their everyday life activities include music, dance, and drama.
On the other hand, verbal arts are those that are performed with the mouth with or without body gestures. They are usually spoken with the mouth. Indigenous Ghanaian verbal arts include folklores, tales, appellations, dirges, poetry etc.
Music
Music permeates and accompanies all the activities undertaken by the indigenous Ghanaians such as hunting, fishing, farming, trading etc. Music is played during festivals, rituals, marriage ceremonies, funeral ceremonies, puberty rites, naming and outdooring ceremonies, funeral rites etc. They played various roles such as entertainment, worship of deities, veneration and inviting of the ancestors, etc. Various musical instruments were used for the composing and playing of the music. They included stringed instruments (hites, lyres), wind instruments (flutes, horns), self-sounding instruments (drums, rattle) etc. Music was specially performed in the royal palaces, town squares, courtyards, parks, and streets. The lyrics of the music embody the religious and cultural beliefs of the indigenous Ghanaians, as well as their ideologies, norms, and values. They were purely educative and were used as a channel for moral instruction.
Dance
Dance, like music, plays a vibrant role in the lives of the indigenous Ghanaians. They ranged from graceful movements to very vigorous movements depending on the style of dance and the occasion and context within which the dance is performed. A dance was performing at naming ceremonies, funeral rites, festivals, religious activities, storytelling sessions etc. Some of the dance movements were symbolic and carried important messages. For instance, the dance performed at durbars, festivals, ritualistic performances and ceremonies of the ancestors by a traditional priest and his attendance were interpreted as messages from the ancestors to the people especially the king. Others were purely for entertainment to relieve stress and enjoy oneself.
Drama
Indigenous Ghanaian drama was evident at virtually all places such as the market and public squares, farms, chop bars, meeting places etc. It was performed at storytelling, initiation rites, and ceremonies of the ancestors to instruct the people concerning the laws, norms, taboos and beliefs of the people. They usually illustrated themes regarding the repercussions of not heeding to the laws and traditions handed down by the ancestors. Moral lessons on how to live a good life were enshrined in the drama performances.
Folklores
They are the unwritten or oral stories that portray the culture of a group or community. Indigenous Ghanaian folklores narrate the activities and events of our forefathers and the origin of our societal laws, values, and norms. They are mediums through which the young ones in the society familiarize themselves with their own cultural heritage. These stories are viewed as true and are taken with all seriousness.
Tales
They are stories narrated to entertain and educate people. They are usually fictitious with unreal characters. They are sometimes full of exaggerations and lies though they are used in highlighting the woes in breaking the laid down rules, customs and taboos of the ancestors in the indigenous Ghanaian communities.
Appellations
These are praises shouted on a god, ancestor, king or important personality recounting his achievements, character, and ego. They are shouted on kings and important personalities during important occasions such as durbars, festivals, and ceremonies before they take their seat at a function. During ceremonies where the ancestors ought to be invited, their appellations are sounded. It was believed by the indigenous Ghanaians that doing this would attract favor, goodwill, blessing and help from the ancestors.
Proverbs
They are short wise sayings that illustrate the bravery of the ancestors. They explain the laws, norms, and ideas of the indigenous Ghanaians. They were narrated at festivals, ceremonies and at storytelling times as a form of moral, cultural and social education for the people.
Dirges
They are words composed for the deceased. They are narrated to console and comfort the bereaved family and sympathizers during funeral ceremonies of their loved ones in the indigenous Ghanaian communities. They educate us on the brevity of our life and the wickedness attributed to death, and the hope that we have to live again. In most occasions, musical instruments accompany these dirges.
All I Could do Was Sit and Collect Dust by Jonathan Mayhew has been shortlisted for the Zurich Portrait Prize 2021
Phạm thị Anh Nga (Huế)
Tôi tiếp xúc với thơ tân hình thức cách đây chừng mười, mười một năm. Có lẽ khá muộn so với nhiều người, nhưng có lẽ cũng là sớm đối với không ít kẻ khác. Và dù đã có thơ được xem là có phong cách tân hình thức, song tôi chưa bao giờ có ý thậm xưng, tự nhận mình là một nhà thơ tân hình thức.
Vả chăng, chưa một lần tôi tự xem mình là “nhà thơ”, do xưa nay tôi vẫn e ngại và dè dặt trước thế giới văn chương. Với tôi thơ chỉ như một phương cách để trải lòng, tự giãi bày, để ghi lại cho mình từng phút giây, mảng đời, dấu ấn, từng xúc cảm riêng. Thi thoảng cũng có thơ đăng báo, khiêm tốn xuất hiện trên các báo, tạp chí, các tuyển tập thơ, với tên thật hoặc kín đáo ẩn sau một bút danh. Nhưng ngay cả khi đã tự xuất bản một tập thơ riêng, tôi cũng chưa từng cảm thấy mình là nhà thơ, gắn với nghiệp thơ.
Khoảng đầu năm 2003, sau khi những số Tạp chí Thơ do anh Đặng Tiến trực tiếp gửi về Huế cho tôi bị chặn ở Hải quan TSN và bị “tịch thu” (!), thậm chí tôi suýt phải nộp tiền phạt với “tội danh” nhận những tài liệu văn hóa trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam (trong khi tôi chưa được thấy, chưa biết mặt mũi các cuốn ấy ngang dọc ra làm sao), thì may mắn thay, sau đó một số cuốn khác cũng do anh Đặng Tiến gửi nhưng nhờ anh Nguyễn Văn Thọ chuyển từ Hà Nội vào Huế cho tôi, và tôi đã nhận được. Câu chuyện bi hài nói trên khá dài, khá oái oăm, tôi sẽ kể vào một dịp khác. Chỉ thêm ở đây một chi tiết: hồi đó anh Đặng Tiến giận lắm, đòi làm cho ra lẽ câu chuyện vô lý trên của Hải quan TNS nhưng tôi không muốn dây dưa thêm nữa nên đã khuyên thôi.
Nhưng, nói cho đúng ra, đó chưa hẳn là lần đầu tiên tôi “bắt gặp” thơ tân hình thức Việt. Trước đó, mặc dù internet còn chưa thật phổ biến và chưa dễ dàng truy cập thông tin về các dòng thơ, các phong cách thơ đương đại như bây giờ, và phần lớn thơ văn sáng tác được biết đến chủ yếu qua sách báo in ấn, nhưng những dịp đi học và công tác ở Pháp, tôi đã tìm đọc và ít nhiều bắt gặp những giọng thơ lạ, trong các số báo hay tạp chí tiếng Việt có uy tín ở nước ngoài, như tạp chí Hợp Lưu chẳng hạn. Tuy vậy, hiện tượng Tạp chí Thơ của anh Khế Iêm quả thật rất đáng chú ý, đặc biệt qua sự giới thiệu đầy nhiệt tâm của anh Đặng Tiến. Tuy cổ xúy cho thơ tân hình thức, nhưng tạp chí cũng giới thiệu hầu hết mọi giọng điệu, phong cách thơ, từ nhiều nguồn, nhiều trào lưu, trường phái, xưa và nay.
Và trong tình trạng khá là hỗn mang đó, tôi thực sự mù mờ về những gì là đặc trưng, cách viết một bài thơ tân hình thức. Chỉ biết đọc ngấu nghiến các số tạp chí, thỏa tò mò, thấy thú vị, và có cái thì thích (thậm chí rất thich) và có cái thì … chưa, nếu không muốn nói là … dị ứng! Ấn tượng và thu hút tôi hơn cả có lẽ là các bài thơ của Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Khế Iêm và Đỗ Kh.. Những câu chuyện rất đời thường lại được đưa vào thơ, rất duyên, theo cái cách là lạ, mà khi vận dụng những kiến thức liên quan đến các thể thơ, vần điệu, nhịp điệu, nhạc tính, ngôn ngữ thơ, truyện kể … đã được học trong nhà trường hay tích lũy ít nhiều sau đó để dạy văn học, tôi liên tưởng đến những chi tiết nho nhỏ trong cuộc sống thực của mình vào thời điểm đó, và có ý định thử nghiệm. Và thế là bài “con trai bé bỏng của tôi” được hình thành. Ít lâu sau anh Đặng Tiến hào hứng chuyển nó cho nhà thơ Khế Iêm, và bài thơ đã được đăng ở Tạp chí Thơ số 26, số Mùa Xuân 2004, cùng với một bài thơ khác của tôi, một bài “lục bát biến thể”. Bài thơ về con trai ấy đã được anh Đặng Tiến khẳng định đúng là một bài thơ tân hình thức. Họa sĩ Đinh Cường, tác giả của nhiều bài thơ tân hình thức rất hay, rất đời, cũng tỏ vẻ thích nó, trong khi nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch thì dường như dè dặt hơn, không mấy hào hứng với nó. Riêng tôi vẫn còn đôi chút băn khoăn với trải nghiệm này.
Băn khoăn, bởi nói thế nào đi nữa, với tôi bài thơ “con trai bé bỏng của tôi” vẫn chỉ là kết quả tiếp nhận và “nhập tâm” từ một số bài thơ đã đọc, rồi tái hiện một cách viết, có thể là của Nguyễn Thị Ngọc Nhung hay Nguyễn Thị Khánh Minh…, vận vào đời thực của tôi. Và khi bài thơ viết xong, tôi vẫn chưa mấy ý thức về thơ tân hình thức. Nói cách khác, tôi gần như lão Jourdain, nhân vật chính trong vở kịch “Trưởng giả học làm sang” của Molière: ông lão đã sung sướng và hãnh diện xiết bao khi biết cái thứ ngôn ngữ xưa nay mình vẫn sử dụng hàng ngày lại được gọi dưới cái tên “sang trọng” là “Văn xuôi” (Prose).
Băn khoăn nữa, là bài thơ xuất hiện trong tạp chí tuy còn nguyên dạng những câu thơ 8 âm (chữ) nhưng chẳng hiểu vì sao không còn 12 khổ thơ 4 câu như trong bản thảo, mà là 48 câu thơ liền mạch từ đầu chí cuối. Ngoài ra, một số đoạn vốn là chữ in nghiêng trong nguyên bản bài thơ (là lời thoại, đối lập với nội dung tường thuật, và ngăn cách giữa chúng là những dấu gạch ngang), thì lạ lùng thay trong bản đăng trên Tạp chí Thơ tuy vẫn còn các dấu gạch ngang nhưng chỉ một số chữ được in nghiêng, thậm chí có chỗ in nghiêng lại thuộc về phần tường thuật chứ không phải lời thoại. Dường như có lỗi kỹ thuật gì đó, có lẽ chủ yếu là kỹ thuật vi tính.
Nhưng có lẽ niềm vui lớn nhất của tôi là ở chỗ từng chi tiết nhỏ của đời thường, rất thật, vui vui và ngộ nghĩnh của thế giới trẻ thơ, lại có thể đưa vào bài thơ một cách hồn nhiên như thế. Truyện kể, lời thoại cứ tự nhiên, bình dị, không cần tô vẽ, màu mè, thêm bớt, chắt lọc hay viện đến phép ẩn dụ hay ngoa dụ, hay một biện pháp tu từ nào khác.
Đã mười năm. Giờ đây nhìn lại, và có điều kiện tham khảo những bài viết của các anh Khế Iêm, Đặng Tiến, Inrasara, Văn Giá … về thơ tân hình thức, tôi nhận diện được một số đặc điểm của thơ tân hình thức mình đã “thực hành” được dù chưa ý thức hết, như: không vần, lặp lại, vắt dòng, trình bày như thơ truyền thống (ở đây là câu thơ 8 âm / chữ), tính truyện với câu chuyện đời thường, và ngôn ngữ đời thường.
Ngẫm về đặc trưng của thơ tân hình thức, tôi vẫn không thôi tự hỏi: để phân định nó, để xác định một bài thơ là tân hình thức hay không, ngoài những nét trên liệu có những đặc tính nào thật rạch ròi hay không? Đâu là giới hạn, đường biên giữa một bên là thơ tân hình thức, một bên là thơ không phải tân hình thức? Thế nào là thơ tân hình thức hẳn hoi và thế nào là thơ tân hình thức nửa chừng? Ngay trong Tạp chí Thơ của Khế Iêm, có đăng đủ các loại thơ, cũng không thấy xếp loại rõ rệt giữa thơ tân hình thức và thơ không phải tân hình thức. Trong nhiều bài thơ, có thể nhận ra những thủ pháp lạ, như tác giả sử dụng các ký hiệu ngoài chữ viết, cố tình “phạm lỗi” chính tả hoặc phát âm, dùng những ký hiệu mang tính đối phó khi gõ bàn phím mà thiếu “phông” chữ tiếng Việt thích hợp, hay tính cách vô lý của câu chuyện được kể … Phải chăng những sắc thái “lạ” nói trên là những dấu hiệu của thơ tân hình thức? Chẳng hạn:
– jì – Thế jới – Hàm jăng hô – Jồi – Thế nà – Bên chai jụ – Noài cuý fái – Chên nãnh địa lày
(Bùi Chát, TCT 26 tr.63-64),
cheo cổ những con CỦY
(tr.68…)
ừ chấm . ừ gạch – […] trầm như huyền \ bổng như sắc / mỏi như ngã ~ lạ như thang !
(Nguyễn Văn Cường TCT 25 tr.44)
Rô\i na\ng ddi la^/y cho^\ng
(Đỗ Kh., tên tác giả được ghi là DDK, TCT 12 tr.38)
Bởi tại tớ đang yêÊÊÊÊÊÊÊu
(Ernest Hemingway, Nguyễn Đăng Thường chuyển ngữ, TCT 14, tr.100)
2. Một bà già ngủ gật vặt lông con gà trống cồ. Khi thức giấc bởi tiếng động lúc rạng sáng, bà ta ra ngoài và nhìn thấy một con gà trụi lông không đầu đang gáy.
(Tám tình huống, Nguyễn Quốc Chánh dịch, TCT 19 tr.30)
Đặc biệt trong đoạn trích cuối cùng ở trên, người đọc có thể thắc mắc rằng như thế mà là thơ được ư, hay vẫn chỉ là văn xuôi. Và nếu đã là thơ, thì đâu là giới hạn giữa thơ và văn xuôi, hay nó cũng đã bị xóa nhòa đi mất?
Tuy nhiên tôi đặc biệt tâm đắc với sự xóa nhòa những ranh giới trường phái nọ kia, và sự hòa nhập giữa xưa và nay, mới và cũ, giữa văn hóa này và văn hóa khác của thơ tân hình thức Việt, như Khế Iêm đã viết, “thơ Tân Hình Thức Việt còn là sự hòa hợp giữa truyền thống và hiện đại, xóa bỏ mọi ranh giới phân biệt, giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt, tạo nên sự giao lưu giữa hai nền văn hóa” [1], bởi, nói như Đặng Tiến, “trong thơ, ranh giới giữa trường phái này trường phái khác, cựu nọ tân kia, không phải lúc nào cũng rạch ròi” [2].
Trong chiều hướng đó, nên chăng hãy cứ phóng tầm nhìn ra xa một chút, truy tìm và khai thác những ý tưởng cách tân độc đáo của một số tác giả nước ngoài, xưa và nay, xem có gì có thể ứng dụng cho tiếng Việt không, để vận dụng cho thơ tân hình thức Việt. Xin đơn cử hai trường hợp của văn học Pháp thế kỷ 20, Guillaume Apollinaire và Raymond Queneau.
Cách đây gần một trăm năm, nhà thơ Guillaume Apollinaire đã chủ trương loại bỏ tất cả các dấu chấm câu trong thơ và tuyên bố “chính nhịp điệu và cách ngắt câu thơ mới là dấu chấm câu thực sự“. [3] Thế mới biết việc các dấu chấm phẩy vắng bóng trong thơ ngày nay không là sáng kiến của thời chúng ta mà đã có từ thuở xa xưa. Nhưng đáng chú ý hơn nữa là G. Apollinaire cũng rất nổi tiếng với các thi họa độc đáo của ông (Calligrammes, 1918), là những bài thơ ngắn mà câu chữ được xếp thành hình họa, và các hình vẽ này liên quan đến nội dung từng bài thơ. Nguồn gốc của loại thi họa này thực ra bắt nguồn từ … trước Công nguyên, với nhà thơ Hy Lạp Simmias de Rhodes (TK 4 TCN). Sau đây là 4 trong số các bài thơ loại này của G. Apollinaire:
Phải chăng đây là một trường hợp đáng để chúng ta tham khảo?
Tác giả Pháp thứ hai tôi muốn nhắc đến là Raymond Queneau, với “Một truyện kể theo cách riêng của bạn” (1967). Đó là một truyện kể được chia thành nhiều ô, mỗi ô là một phần câu chuyện, và khi kết thúc mỗi ô người đọc được mời lựa chọn sẽ tiếp tục như thế nào. Câu chuyện bắt đầu như sau (ô 1):
Bạn có muốn biết về câu chuyện ba hạt đậu Hà lan liếng thoắng hay không ? Nếu có, hãy chuyển sang ô 4. Nếu không, hãy chuyển sang ô 2.
Người đọc được quyền đọc truyện kể theo cách riêng của mình, theo lộ trình ưa thích. Tất nhiên tất cả các cách đọc, các lộ trình này đều đã được nhà văn phác họa trước và hướng dẫn.
Một thí dụ đáng kể nữa của R. Queneau là cuốn “Những bài luyện tập về phong cách” (1947): cùng một câu chuyện (dài khoảng mươi dòng) nhưng được kể bằng 99 cách thức khác nhau, với nhiều phong cách, góc độ, giọng điệu, cấp độ ngôn ngữ … Các phiên bản khác nhau đó có tựa riêng là Ghi chú, Một cách ẩn dụ, Ngược dòng, Ngạc nhiên, Giấc mơ, Cầu vồng, Do dự, Tượng thanh, Nhấn mạnh, Thẩm vấn, Triết học, Vụng về, Khứu giác, Vị giác, Xúc giác, Thị giác, Thính giác, Chân dung, Hình học, Nông dân, Bất ngờ …[4]. Kể cũng nên xem những tìm tòi trong cách viết như thế của R. Queneau, dù đó là trong lĩnh vực văn xuôi và từ thế kỷ 20, có gợi những ý tưởng thú vị nào cho chúng ta ngày nay không, và có gì có thể ứng dụng cho thơ tân hình thức Việt?
Trở lại với các bài thơ đã công bố trên Tạp chí Thơ, phải chăng một bài thơ tân hình thức còn có thể được chuyển sang một hay nhiều dạng thức, thể thơ khác, với cùng những câu chữ như thế nhưng cách sắp xếp có khác đi một ít. Chúng ta thử đọc bài thơ sau của Vạn Giả, đăng trên Tạp chí Thơ 26, tr. 131:
MÙA XUÂN VÀ EM
Ta vẫn còn nhau trong tưởng chừng mất biệt. Tình rạng rỡ reo vui nư [5] mạch sống đang xuân. Anh gửi đến em một tấm lòng tha thiết xin em cất giữ giùm trong đáy trái tim em…
Dù cho bài thơ được trình bày dưới dạng các câu thơ 5 âm (chữ), khi đọc (đọc thầm hoặc đọc thành tiếng), chúng ta có thể nhận thấy thật ra “cấu trúc chìm” của nó là một bài thơ gồm 4 câu và mỗi câu có 9 âm (chữ). Giả dụ ta mạn phép tác giả, xô dạt các chữ một chút và loại bỏ dấu chấm câu, kết quả có thể là một bài thơ có dạng thơ lục bát, tất nhiên vẫn với “cấu trúc chìm” là 4 câu thơ 9 âm (chữ). Và dường như nó còn tân hình thức hơn cả nguyên bản:
MÙA XUÂN VÀ EM
ta vẫn còn nhau trong tưởng chừng mất biệt tình rạng rỡ reo vui nư mạch sống đang xuân anh gửi đến em một tấm lòng tha thiết xin em cất giữ giùm trong đáy trái tim em…
Và phải chăng, khả năng dịch chuyển trên bề mặt các dạng thơ, thể thơ không dừng lại ở đó mà còn có có thể đi xa hơn, theo những cách thức tương tự hoặc khác hơn. Chẳng hạn khi khoác cho bài thơ tân hình thức Việt một tấm áo mượn từ các dạng thơ cổ Ode hay Sonnet, Ballade, Rondeau, Aube… của phương Tây, hoặc gần hơn là Haiku, Tanka của Nhật. Việc đó rất khác so với việc làm thơ tiếng Việt nhưng tuân thủ quy tắc và vần điệu của các loại thơ đó.
Cũng như mọi trào lưu thơ, trường phái thơ từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, thơ tân hình thức Việt cũng có bài hay, có bài chưa hay, và có kẻ khen người chê. Nhưng thơ tân hình thức Việt nào đã thể hiện hết mình…
Ngoài một số nhà thơ đã chững chạc trong tác phẩm của mình và đã có tính thuyết phục, tạo dấu ấn riêng, thậm chí lôi cuốn, thu phục thiện cảm của những người chưa từng đồng hành cùng mình, vẫn còn không ít người làm thơ tân hình thức đang mày mò tìm cách thể hiện, tự tìm hướng đi, và họ có thể vấp, ngã, đau, và rồi đứng lên tiếp tục đi tới. Những gì có giá trị thật sớm muộn gì cũng sẽ được khẳng định, còn lại thì sẽ phôi pha, chìm vào quên lãng.
Nên chăng chúng ta hãy cứ bình tâm và kiên nhẫn. Để thời gian và cuộc sống từng bước, dần hồi, làm trọn công việc của mình. Là sàng lọc. Và phán xét.
Québec, tháng 10 / 2013
Tài liệu tham khảo:
Khế Iêm, “Tân hình thức, nhắc lại – 10 năm”, 2012. http://vietvan.vn/vi/bvct/id2818/Tan-hinh-thuc,-nhac-lai—10-nam/
Đặng Tiến, “Thơ tân hình thức, nhịp đập của thời đại”, 2006. http://www.bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=1283
Inrasara, “Khế Iêm, câu chuyện tân hình thức kể lại”, 2009. http://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=8164
“Cách làm một bài thơ tân hình thức”. http://www.thotanhinhthuc.org/thongbao/tb_cachlamtht.html
Inrasara, “Tân hình thức, một bước đi mới”, 2008. http://4phuong.net/mobile/ebook/47627897/tan-hinh-thuc-mot-buoc-di-moi.html
Thăng Long, “Thơ Tân hình thức và cái khó của người sáng tạo”, 2011. http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=13953
Văn Giá, “Về một nỗ lực làm mới thơ Việt”, 2012. http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c264/n10462/Ve-mot-no-luc-lam-moi-tho-Viet.html
[1] Khế Iêm, “Tân hình thức, nhắc lại – 10 năm”, 2012.
[2] Đặng Tiến, “Thơ tân hình thức, nhịp đập của thời đại”, 2006.
[3] “Le rythme même et la coupe des vers sont la véritable ponctuation.”
Publishing Poetry – How To Locate The Best Markets Where You Can See Your Poems In Print
Seeing your poetry in print can be a wonderful feeling, but the poetry market is one of the hardest to break into. The rejection letters can really pile up, and that can lead to some discouragement. But rejection letters should not get the would-be poet down. There are more markets available than many poets realize. Part of the trick to seeing one’s poetry in print is knowing where to start.
I have found The Poet’s Market to be one of the best guides for locating good markets, paying or otherwise. The book gives nice listings, with a good description and thorough information, for nearly 2,000 different markets. There are also a series of indexes for making navigation through the various listings a little easier. My favorite index is probably the one that lists the markets by “openness to new poets.” Poets who are still in the early stages of getting their work published will find this especially useful. A realistic approach about the markets most suitable for one’s own work is very important for the poet who hopes to see his or her work in print for many years to come. While “starting small” might be uncomfortable for some, it is the surest path to success. Even if the earlier publications are not in paid markets, it can be very helpful in building up a track record, and in helping you learn the ropes of working with a literary magazine.
Another useful resource for poets who want to see their work in print is Poets & Writers. The magazine always has a good classifieds section. At their website, you can find a submission calendar that will help you stay more disciplined, if you follow the deadlines listed there. The online classifieds section, like the print version, includes calls for manuscripts in magazines and anthologies, as well as calls for chapbook submissions.
Similarly, you will find good listings for potential markets at the Once Written and the Poetry in the Arts websites. Christian writers might like to have a look at the Utmost Christian Poets website.
When you have begun submitting poetry, you will find that you get several different sort of rejection letters from editors (and you are bound to get some rejection letters). I have found it helpful to sort through these letters and find those that offer some feedback on the poems I sent to them. For the most part, editors who take the time to respond to your work, even if they are rejecting it, do so because there is some potential for a future relationship between you and the magazine. Take note of which poems the editor liked best, and why s/he rejected them. This will give you a clue to what sort of poems to send to that market the next time around.
Once you get a foot in the door and begin to see your work in print, it becomes a little easier to have more poetry accepted for publication. This is partly, perhaps, because your credibility within the publishing community has gone up. I think, though, that it is equally because the poet becomes a little more savvy in knowing where to submit. Having seen which types of publications like your work helps you decide where to submit in the future. If you find magazines that are similar to those you have already worked with, then you should submit to them. One way to find such publications is to note where the magazines that have accepted your work are sold, and find what other literary publications are also sold there.
The most common advice I hear when I am submitting poetry is, “Don’t give up.” I will pass echo that advice, along with these tips for where to find good markets. A rejection letter does not mean the poem is not good enough to get into print. It only means that it is not suitable for that particular publication. The best response to a rejection letter is to look at the poem again (particularly if the editor has given you some feedback), and rethink where you will submit it next.
Việc nhìn thấy thơ của bạn được in có thể là một cảm giác tuyệt vời, nhưng thị trường thơ là một trong những thị trường khó thâm nhập nhất. Những lá thư từ chối thực sự có thể chất đống, và điều đó có thể dẫn đến một số sự nản lòng. Nhưng những lá thư từ chối không nên làm nản lòng những nhà thơ tương lai. Có nhiều thị trường hơn nhiều nhà thơ nhận ra. Một phần của mẹo để nhìn thấy thơ của một người được in là biết bắt đầu từ đâu.
Tôi thấy The Poet’s Market là một trong những hướng dẫn tốt nhất để tìm ra những thị trường tốt, trả tiền hoặc không. Cuốn sách cung cấp danh sách hay, với mô tả hay và thông tin đầy đủ, cho gần 2.000 thị trường khác nhau. Ngoài ra còn có một loạt các chỉ mục để điều hướng qua các danh sách khác nhau dễ dàng hơn một chút. Chỉ mục yêu thích của tôi có lẽ là chỉ mục liệt kê các thị trường theo “mức độ cởi mở với các nhà thơ mới”. Các nhà thơ vẫn đang trong giai đoạn đầu xuất bản tác phẩm của mình sẽ thấy điều này đặc biệt hữu ích. Một cách tiếp cận thực tế về các thị trường phù hợp nhất với tác phẩm của chính mình là rất quan trọng đối với nhà thơ hy vọng sẽ thấy tác phẩm của mình được in trong nhiều năm tới. Mặc dù “bắt đầu nhỏ” có thể khiến một số người cảm thấy không thoải mái, nhưng đây là con đường chắc chắn nhất dẫn đến thành công. Ngay cả khi các ấn phẩm trước đó không có trên thị trường trả phí, thì nó vẫn có thể rất hữu ích trong việc xây dựng thành tích và giúp bạn học hỏi những điều cơ bản khi làm việc với một tạp chí văn học.
Một nguồn tài nguyên hữu ích khác dành cho các nhà thơ muốn thấy tác phẩm của mình được in là Poets & Writers. Tạp chí này luôn có mục rao vặt hữu ích. Trên trang web của họ, bạn có thể tìm thấy lịch nộp bài giúp bạn kỷ luật hơn nếu bạn tuân thủ các thời hạn được liệt kê ở đó. Mục rao vặt trực tuyến, giống như phiên bản in, bao gồm các lời kêu gọi gửi bản thảo cho tạp chí và tuyển tập, cũng như lời kêu gọi gửi tập thơ.
Tương tự như vậy, bạn sẽ tìm thấy danh sách tốt cho các thị trường tiềm năng tại các trang web Once Written và Poetry in the Arts. Các nhà văn Cơ đốc giáo có thể muốn xem trang web Utmost Christian Poets.
Khi bạn bắt đầu gửi thơ, bạn sẽ thấy rằng mình nhận được một số loại thư từ chối khác nhau từ các biên tập viên (và bạn chắc chắn sẽ nhận được một số thư từ chối). Tôi thấy việc phân loại những lá thư này và tìm những lá thư cung cấp phản hồi về những bài thơ tôi gửi cho họ là rất hữu ích. Phần lớn các biên tập viên dành thời gian để phản hồi tác phẩm của bạn, ngay cả khi họ từ chối, đều làm như vậy vì có một số tiềm năng cho mối quan hệ trong tương lai giữa bạn và tạp chí. Hãy ghi chú lại những bài thơ mà biên tập viên thích nhất và lý do tại sao họ từ chối chúng. Điều này sẽ giúp bạn biết nên gửi loại thơ nào đến thị trường đó vào lần tới.
Khi bạn đã bước chân vào thị trường và bắt đầu thấy tác phẩm của mình được in, bạn sẽ dễ dàng hơn một chút để có nhiều thơ hơn được chấp nhận xuất bản. Có lẽ một phần là do uy tín của bạn trong cộng đồng xuất bản đã tăng lên. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng điều đó cũng là do nhà thơ trở nên thông minh hơn một chút trong việc biết nên gửi ở đâu. Việc xem những loại ấn phẩm nào giống với tác phẩm của bạn sẽ giúp bạn quyết định nên gửi ở đâu trong tương lai. Nếu bạn tìm thấy những tạp chí tương tự như những tạp chí mà bạn đã từng làm việc, thì bạn nên gửi đến những tạp chí đó. Một cách để tìm những ấn phẩm như vậy là lưu ý nơi các tạp chí đã chấp nhận tác phẩm của bạn được bán và tìm những ấn phẩm văn học khác cũng được bán ở đó.
Lời khuyên phổ biến nhất mà tôi nghe được khi nộp thơ là “Đừng bỏ cuộc”. Tôi sẽ lặp lại lời khuyên đó, cùng với những mẹo sau đây về nơi tìm thị trường tốt. Thư từ chối không có nghĩa là bài thơ không đủ hay để in. Nó chỉ có nghĩa là nó không phù hợp với ấn phẩm cụ thể đó. Phản ứng tốt nhất đối với thư từ chối là xem lại bài thơ (đặc biệt là nếu biên tập viên đã cung cấp cho bạn một số phản hồi) và suy nghĩ lại về nơi bạn sẽ nộp tiếp theo.
The content of African poetry, is made of themes that emanate from the African background. This background, as you will recall, consists essentially of experiences of colonial and post-colonial eras. The details of these experiences involve firstly a clash of cultures which featured in the initial colonial contact between Africa and the West. Western culture, which was the culture of the colonialists, was superimposed on the African culture of the colonized. A clash of cultural values emerged as the African culture resisted this superimposition.
This cultural clash became a ready theme or element for many African poets. Okot p’Bitek explores it well in the two poems he wrote “The Graceful Griraffe cannot become a Monkey” and ‘My Name Blew like a Horn among the Payira.’ p’Bitek protests against the superimposition of the White culture on African culture.
Exile and alienation are two important elements in African poetry that resulted from colonial contact especially in areas of Africa colonized by the French. For example, Senegal. In these places, the French practiced a policy of assimilation whose aim was to turn the Africans into black Frenchmen. These Africans imbibed so much of the white culture of the French that they virtually lost their identity as Africans. The result was that they were alienated from their African roots and, as it often happened, went to live in France, thus exiling themselves even physically. Senghor in ‘in Memoriam’ and ‘I will pronounce Your Name’ protests vehemently against this experience.
Do not be misled into thinking that African poetry is made up of only themes that concern Africa and Africans. That is, themes that are localized. Some African poets write about themes that could apply to any part of the world. The example we have here of such universal themes is in ‘Soyinka’s ‘Telephone conversation’ which deals with the issue of racism and his ‘post mortem’ which deals with the theme of death. The poet’s response to these issue is that racism is irrational and a hateful evil. Death in Soyinka’s view is unfathomable and therefore not worthy of man’s consistent but futile probe.
African poetry covers very many themes, both local and universal, depending on the experiences Africa and Africans have gone through.
Style
In terms of style, African poetry is written mainly in free verse which is common among many modern poets. It is not written according to any fixed rules, forms or conventions. The form which African poetry takes is governed by the subject – matter that are treated. Free verse allows for freedom of expression and style.
Instead of using rhyme, rhythm, metre or other fixed forms to enhance their meaning, African poets employ other poetic devices in skillful ways that enable them to achieve the same effect as those achieved by the use of fixed rules and conventional forms.
On a final point: Remember that we are not saying African poets do not use devices like rhyme, rhythm, meter, sonnects etc. They occasional use these devices but they do not particularly make them convey the meanings of their poems as they make the devices we have just discussed embellish their meaning.
Lịch sử thơ ca châu Phi Nội dung và hình thức
Nội dung
Nội dung của thơ ca châu Phi được tạo thành từ các chủ đề xuất phát từ bối cảnh châu Phi. Bối cảnh này, như bạn sẽ nhớ lại, về cơ bản bao gồm các trải nghiệm của thời kỳ thuộc địa và hậu thuộc địa. Chi tiết của những trải nghiệm này trước tiên liên quan đến sự xung đột giữa các nền văn hóa, đặc trưng trong sự tiếp xúc thuộc địa ban đầu giữa châu Phi và phương Tây. Văn hóa phương Tây, vốn là văn hóa của những người thực dân, đã được chồng lên văn hóa châu Phi của những người bị thực dân hóa. Một cuộc xung đột giữa các giá trị văn hóa đã xuất hiện khi văn hóa châu Phi chống lại sự chồng chéo này.
Cuộc xung đột văn hóa này đã trở thành chủ đề hoặc yếu tố sẵn có đối với nhiều nhà thơ châu Phi. Okot p’Bitek đã khám phá điều này rất tốt trong hai bài thơ ông viết “The Graceful Griraffe cannot become a Monkey” và ‘My Name Blew like a Horn among the Payira’. p’Bitek phản đối sự chồng chéo của văn hóa da trắng lên văn hóa châu Phi.
Lưu vong và xa lánh là hai yếu tố quan trọng trong thơ ca châu Phi xuất phát từ sự tiếp xúc thuộc địa, đặc biệt là ở các khu vực châu Phi do người Pháp chiếm đóng. Ví dụ, Senegal. Ở những nơi này, người Pháp đã thực hiện chính sách đồng hóa với mục đích biến người châu Phi thành người Pháp da đen. Những người châu Phi này đã hấp thụ quá nhiều nền văn hóa da trắng của người Pháp đến nỗi họ gần như mất đi bản sắc của người châu Phi. Kết quả là họ bị xa lánh khỏi nguồn gốc châu Phi của mình và, như thường lệ, đã chuyển đến sống ở Pháp, do đó, họ thậm chí còn tự lưu đày mình về mặt thể xác. Senghor trong ‘In Memoriam’ và ‘I will pronunciation Your Name’ đã phản đối kịch liệt trải nghiệm này.
Đừng để bị hiểu lầm rằng thơ ca châu Phi chỉ bao gồm các chủ đề liên quan đến châu Phi và người châu Phi. Nghĩa là, các chủ đề mang tính địa phương. Một số nhà thơ châu Phi viết về các chủ đề có thể áp dụng cho bất kỳ nơi nào trên thế giới. Ví dụ chúng ta có ở đây về các chủ đề phổ quát như vậy là trong ‘Telephone conversation’ của Soyinka, tác phẩm này đề cập đến vấn đề phân biệt chủng tộc và ‘post mortem’ của ông, tác phẩm này đề cập đến chủ đề về cái chết. Phản ứng của nhà thơ đối với những vấn đề này là chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là phi lý và là một điều xấu xa đáng ghét. Theo quan điểm của Soyinka, cái chết là điều không thể hiểu thấu và do đó không xứng đáng để con người tìm hiểu liên tục nhưng vô ích.
Thơ ca châu Phi bao gồm rất nhiều chủ đề, cả địa phương và toàn cầu, tùy thuộc vào những trải nghiệm mà châu Phi và người châu Phi đã trải qua.
Phong cách
Về phong cách, thơ ca châu Phi chủ yếu được viết theo thể thơ tự do, thể thơ này phổ biến trong nhiều nhà thơ hiện đại. Thơ không được viết theo bất kỳ quy tắc, hình thức hay quy ước cố định nào. Hình thức mà thơ ca châu Phi sử dụng được chi phối bởi chủ đề – vấn đề được xử lý. Thơ tự do cho phép tự do thể hiện và phong cách.
Thay vì sử dụng vần điệu, nhịp điệu, nhịp thơ hoặc các hình thức cố định khác để nâng cao ý nghĩa của chúng, các nhà thơ châu Phi sử dụng các biện pháp thơ khác theo những cách khéo léo cho phép họ đạt được hiệu ứng tương tự như những biện pháp đạt được bằng cách sử dụng các quy tắc cố định và hình thức thông thường.
Về điểm cuối cùng: Hãy nhớ rằng chúng tôi không nói rằng các nhà thơ châu Phi không sử dụng các biện pháp như vần điệu, nhịp điệu, nhịp thơ, sonnect, v.v. Họ thỉnh thoảng sử dụng các biện pháp này nhưng họ không thực sự sử dụng chúng để truyền tải ý nghĩa của bài thơ vì họ sử dụng các biện pháp mà chúng tôi vừa thảo luận để tô điểm cho ý nghĩa của chúng.