William Wordsworth – Người yêu thiên nhiên đích thực

    Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng cho các nhà thơ. Họ đã nhân cách hóa mặt trăng như một người phụ nữ bạc trắng và cây xanh như một người phụ nữ mùa xuân. William Wordsworth, một nhà thơ nổi tiếng của Thời kỳ Lãng mạn, đã liên hệ hầu hết các bài thơ của mình với thiên nhiên. Là con thứ hai trong gia đình năm anh chị em, ông luôn được cha khuyến khích đọc thơ. Ông đã đọc thơ của các nhà thơ vĩ đại như John Milton, William Shakespeare và Edmund Spencer. Những vần thơ của họ, theo một cách nào đó, đã chiếm trọn tâm trí của cậu bé William Wordsworth ngay từ khi còn rất nhỏ.

    Lyrical Ballads, The Preludes và Lucy Gray được coi là một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của William. Ba trong số đó được viết vào những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời ông; Lyrical Ballads được xuất bản năm 1789. Thực ra, đây là một tập hợp gồm một số bài thơ do ông sáng tác và bốn bài của Samuel Taylor Coleridge.

    Khúc dạo đầu được xuất bản sau khi ông qua đời bởi vợ ông. Tác phẩm này giống như một cuốn tự truyện mô tả cuộc sống thời thơ ấu của ông, đôi khi được ông sửa đổi với sự giúp đỡ của chị gái Dorothy Wordsworth.

    Lucy Gray, một nhân vật hư cấu của William Wordsworth, được chia thành năm tác phẩm. Nhân vật giả này là một phần nỗi cô đơn của William. Trong tất cả các tác phẩm của mình, William Wordsworth dành tình cảm sâu sắc cho nhân vật này. Theo một nhà phê bình, William Wordsworth đã “tạo ra nhân vật, sống cùng cô và khóc thương khi cô qua đời”.

    Trong tất cả những bài thơ tuyệt vời của ông, tác phẩm thuyết phục nhất là về Sông Yarrow. Trong bài thơ này, ông nhắc đến dòng sông, mang đến một bức tranh chân thực về cuộc sống. Trong bài thơ Yarrow Unvisited, ông sợ hãi khi đến thăm thung lũng, nghĩ về nỗi buồn có thể phủ bóng lên mình nếu nó không phù hợp với khởi đầu của ông. Ông nghe rất nhiều về chốn thiên đường và vẽ nên những hình ảnh sống động trong tâm trí.

    Trong chuyến thăm, ông ngạc nhiên khi thấy nơi này vượt quá sức tưởng tượng. Trong bài viết “Yarrow Visited”, ông nhận xét rằng “những điều trong hiện thực đẹp hơn nhiều so với những điều trong tưởng tượng”. Tuy nhiên, ông không hài lòng với chuyến thăm đầu tiên và vì vậy ông đã quay lại nơi mà ông đã mô tả trong “Yarrow Revisited”.


    Nature has always been an inspiration to the poets. They have personified the moon as a silvery lady and the greenery as a lady of spring. William Wordsworth, a famous poet of the Romantic Age has related most of his poems to nature. As the second child among five siblings, he was always encouraged by his father to read poems. He read poems of great poets like John Milton, William Shakespeare and Edmund Spencer. Their verses in a way captured the mind of little William Wordsworth at a very tender age.

    Lyrical Ballads, The Preludes and the Lucy Gray are considered as one of the most famous verses of William. Three of them were written at different stages of his life; Lyrical Ballads was published in the year 1789. It actually is a collection of several poems written by him and four by Samuel Taylor Coleridge.

    The Preludes, was published after his death by his wife. It is like a semi autobiography describing his early life which he did modified at times with the help of his sister Dorothy Wordsworth.

    Lucy Gray an imaginary character of William Wordsworth is divided into five works. This pseudo character was a part of William’s loneliness. Among all his works William Wordsworth had a great affinity for this character. According to one of the critic, William Wordsworth “created the character, lived with it and cried on her death”.

    Among all his beautiful poems the most convincing work is about River Yarrow. In this poem he refers to the river giving a true picture of life. In his poem Yarrow Unvisited he was scared to visit the valley thinking about the sadness that could overshadow him if it fails to match his inception. He heard much about the heavenly place and drew pictures of vivid imaginations in his mind.

    On his visit he was surprised to see that the place was beyond ingenuity. In his piece Yarrow Visited, he commented that ‘the things of reality are far more beautiful than things of imagination’. He was however not satisfied with his first visit and hence he again visited the place which he described in Yarrow Revisited.

    Source by Naresh R

    Sẵn sàng là Sẵn sàng

    Tranh Brielle Do
    Tranh Brielle Do

    Gửi gia đình và bạn bè,   

    Dear family and friends,   

    Buổi tiếp theo của Write from Real Life bắt đầu từ ngày 9 tháng 7 và kéo dài đến ngày 3 tháng 9. Buổi hè của Feral Poetry bắt đầu từ ngày 22 tháng 7 và kéo dài trong ba tuần . Và có một phiên bản mới của Short and Sweet bắt đầu vào ngày 20 tháng 8. Bạn được nồng nhiệt mời tham gia bất kỳ lớp học nào trong số này ngay cả khi bạn đã tham gia trước đây. Tôi thường thay đổi một số bài đọc vì tôi bị ám ảnh theo cách đó, và đó luôn là một trải nghiệm mới mẻ, ngay cả đối với tôi. 

    The next session of Write from Real Life begins July 9, and goes until September 3. The summer session of Feral Poetry starts July 22nd and runs for three weeks. And there’s a new version of Short and Sweet starting on August 20th. You are warmly invited to take any of these classes even if you have taken them before. I usually switch up some of the readings because I’m compulsive that way, and it’s always a fresh experience, even for me.

    Tôi có một bài trên The Letter Review có tên là Seeking the Third. Đây rồi. 

    I have an essay up at The Letter Review called Seeking the Third. Here it is.

    Chị gái tôi đang dọn dẹp gác xép của ngôi nhà cũ và tìm thấy một kho thơ tôi đã viết hồi lớp hai mà Bà của chúng tôi đã lưu lại. Thực tế, Bà thường mang theo những bài thơ của tôi trong cuốn sổ tay đen to của bà và bắt những người bà quen biết đọc chúng. Emily cẩn thận gói những trang giấy ố vàng lại và gửi những bài thơ cho tôi, và Lee đã đọc to chúng trong khi cả hai chúng tôi cười lớn đến mức khóc. 

    My sister was cleaning out the attic of her old house and found a cache of poems I had written in second grade that our Grandmother had saved. In fact, Grandmother used to carry my poems around in her big black pocketbook and inflict them on people she knew. Emily carefully wrapped up the yellowing pages and sent the poems to me, and Lee read them out loud while we both laughed so hard we cried.

    Những bài thơ cho thấy một tác giả khao khát được nói với thế giới nhưng vẫn chưa có gì để nói. Tuy nhiên, cô ấy vẫn khao khát – khao khát đến thế! – được tham gia vào cuộc trò chuyện. Ví dụ như một bài thơ mang tên Hà Lan, một nơi tôi chưa từng đặt chân đến. Một vài câu mẫu:

    The poems reveal an author who badly wants to speak to the world but doesn’t yet have anything to say. Still, she wants–so badly!–to be part of the conversation. There is for example a poem called The Netherlands, a place I have never visited.  Some sample lines:

    “Oh they are clean and Neat they are with lovely shining Floors, and polished shining windows With neat clean Doors.”

    “Ôi, họ thật sạch sẽ và gọn gàng, họ thật tuyệt vời với những sàn nhà sáng bóng, và những cửa sổ sáng bóng, với những cánh cửa sạch sẽ, gọn gàng.” 

    Vì tôi vẫn chưa từng đến Hà Lan, nên tôi không biết liệu những điều này có đúng hay không, và vì bây giờ, cũng như trước đây, tôi là một người quản gia thờ ơ, tôi không biết niềm đam mê về sự sạch sẽ được thể hiện trong bài thơ đến từ đâu. Tôi nghĩ tôi chỉ thích âm thanh của những từ ngữ được ghép lại với nhau, và đức tính gián tiếp mà tôi cảm thấy khi gắn bó với người Hà Lan sạch sẽ, gọn gàng.

    Since I still have never been to the Netherlands, I have no idea if any of this is true or not, and since I am now, as then, an indifferent housekeeper, I have no idea where the passion for cleanliness expressed in the poem comes from. I think I just liked the sound of words together, and the vicarious virtue I felt in associating myself with the neat, clean Dutch.

    Tôi đã làm việc hai mươi năm với Hội Nhà thơ California tại các trường học và là một nhà thơ thỉnh giảng trong nhiều lớp học cấp hai. Tôi đã gặp rất nhiều nhà văn trẻ viết những bài thơ hay hơn tôi rất nhiều khi còn ở độ tuổi của họ. Họ có hình ảnh, trí tưởng tượng, niềm đam mê và những ý tưởng thực tế. (Chị tôi kể rằng họ cũng được hưởng lợi từ một nhà thơ ở trường, người đã cho họ tiếp xúc với thơ ca hay và gợi ý cho họ, điều đó cũng dễ hiểu thôi.) Hồi nhỏ, tôi chủ yếu yêu thích vần điệu và khao khát mãnh liệt được làm vui lòng và được khen ngợi. Bà tôi cũng vậy, bà luôn coi những bài thơ tôi viết nguệch ngoạc thời thơ ấu là báu vật, và bà đã lưu giữ chúng để tôi có thể cười khi nhìn lại.

    I worked for twenty years with California Poets in the Schools and was a visiting poet in many second grade classrooms. I’ve encountered scores of young writers who wrote far better poems than I did at their age. They had imagery, imagination, passion, and real ideas. (My sister points out that they also had the benefit of a poet in the schools who exposed them to good poetry and gave them prompts, which–fair enough.) As a kid, I mostly had a love of rhyme and an overweening desire to please and to be praised. And I had my grandmother who thought that my childish scribblings were treasures, and who preserved those poems so that I can laugh at them today.

    Tôi không biết mình có tin vào tài năng hay không. Tôi tin vào tình yêu – tình yêu dành cho nghệ thuật, tình yêu giữa một đứa trẻ và một người lớn đáng tin cậy, mà đôi khi, hy vọng là may mắn thay, có thể chuyển hóa thành một điều gì đó sâu sắc hơn – tình yêu chân lý, tình yêu cái đẹp, sự công nhận sức mạnh của nghệ thuật, và lòng khiêm nhường để phục vụ sức mạnh đó. Tôi cũng tin rằng khi bạn nói với một đứa trẻ điều gì đó, chúng sẽ tiếp thu. Nếu bạn nói “Con là nhà văn!”, đứa trẻ sẽ coi đó là chân lý. (Mặt sau, hãy nói với chúng rằng chúng chẳng giỏi việc gì cả và chúng cũng sẽ tin điều đó.)

    I don’t know if I believe in talent. I believe in love–love of the art form, love between a child and a trusted adult, which then sometimes, hopefully, luckily, can morph into something deeper–a love of truth, a love of beauty, a recognition of the power of art, and the humility to serve that power. I also believe that when you tell a child something, they absorb it. If you say “You’re a writer!” the child takes that on as gospel. (On the obverse, tell them they’re no good at something and they will believe that too.)

    Tôi đã nhận được khá nhiều lời chỉ trích tiêu cực mà tôi vẫn đang cố gắng khắc phục. Tôi đã nỗ lực hết mình trong vài năm qua để trở thành một người biết hát. Tôi đã gặp nhiều người lớn luôn khao khát viết lách nhưng không được khuyến khích. Một số người bị nói thẳng rằng họ viết kém – thường là bởi những giáo viên không biết họ đang nói gì.

    I did receive my fair share of negative messaging which I’m still working to undo. I’ve worked ferociously these past few years to become someone who can sing. I’ve encountered many adults who always yearned to write but didn’t get encouraged to do it. Some were told outright that they were poor writers–often by teachers who didn’t know what they were talking about.

    Tôi muốn những lớp học tôi dạy là nơi chúng ta có thể gạt bỏ những điều vô nghĩa về việc ai tốt, ai xấu, ai giỏi hơn, ai kém hơn, và bắt tay vào công việc của con người là kể chuyện hay làm thơ. Bởi vì nghệ thuật lay động chúng ta theo những cách mà ta không thể giải thích nổi. Tôi không hiểu tại sao một bức tranh, một bài hát hay một bài thơ lại có thể khiến người này rơi nước mắt trong khi người khác lại lạnh lùng, và tôi cũng không biết ai “có tài” hay ai không.

    I want the classes I teach to be places where we can undo that nonsense about who is good or bad or better or worse and get down to the human work of telling stories or making poems. Because art moves us in ways we can’t even explain. I don’t know why a painting or a song or a poem can bring some people to tears while leaving others cold, and I don’t know who is “talented” or who is not.

    Nếu tôi gặp những bài thơ thiếu nhi của mình khi còn làm thơ ở trường, tôi sẽ chẳng nghĩ ngợi gì nhiều về chúng. Tôi đã bảo cô bé đó ngừng gieo vần và nhìn xung quanh xem con bé biết những gì. Nhưng cô bé ấy lại thích gieo vần và chẳng mấy quan tâm đến cuộc sống thực tại – con bé muốn viết về những nơi mình chưa từng đến. Và bằng cách nào đó, chính khát khao bướng bỉnh của con bé đã đưa tôi đến đây hôm nay.

    If I’d encountered my kid poems when I was working as a poet in the schools I wouldn’t have thought much of them. I’d have told that young girl to stop rhyming and look around her at things she knows. But that little girl loved to rhyme and she wasn’t much interested in real life–she wanted to write about places she’d never been. And somehow her stubborn desire got me here today.

    Thân ái,
    Alison.

    Đây là một bài thơ trong Shadowplay:

    Love,
    Alison

    Here’s a poem that was in Shadowplay:

    Sẵn sàng là Sẵn sàng

    Một ngày xám xịt gió giật bên hồ
    Tôi đi bộ đến bờ, đội mũ trùm đầu,
    khom vai thì đi ngang qua một người
    phụ nữ đang ngắm nhìn dòng nước màu

    trà. Cô ấy có vẻ mặt mà chúng
    ta thường thấy khi nhìn thấy một em
    bé. Hóa ra đó là một chú chim
    nhỏ xíu, đen như nhung ướt, vừa mới

    tập câu cá, chúi đầu xuống nước, rồi
    lại ngoi lên như một vật trang trí
    trên ly cocktail. Tôi sẽ không thể
    tự mình chứng kiến ​​điều đó, sải bước

    mù quáng như mọi khi, chống chọi với
    thời tiết, chống chọi với chủ nghĩa tư
    bản giai đoạn cuối và rồi thất bại.
    Nhưng tôi có thể bám theo sự chú

    ý của cô ấy trong giây lát, có
    thể nhận ra cô ấy đang chú ý
    và cứ thế len lỏi qua khe hở
    giữa nỗi lo lắng và tầm nhìn rộng

    mở hơn. Trong chương trình mười hai bước,
    người ta nói rằng bạn phải sẵn sàng
    để ân sủng bước vào cuộc sống của
    mình, nhưng nếu bạn không sẵn sàng, thì

    có lẽ bạn sẽ sẵn lòng sẵn lòng,
    và cứ thế, cho đến khi cuối cùng
    một tia sáng nào đó có thể tìm
    thấy bạn, dù bạn có cáu kỉnh và

    ướt đẫm mưa, dù bạn nghĩ mình đang
    ở rất xa nhà.

    --Alison Luterman


    Willing to be Willing

    Gray blustery day by the lake.
    I’m walking to the bank,
    hood up, shoulders hunched
    when I pass a woman
    watching the tea-colored water.
    She’s got that look on her face we get
    when we see a baby anything.
    Turns out it’s a tiny coot, black as wet velvet,
    just learning to fish, tipping head down
    into the drink, then popping up again
    like a cocktail glass ornament.
    I wouldn’t have seen it on my own,
    striding blindly as I always am,
    fighting the elements, fighting late-stage
    capitalism and losing. But I could ride
    the coattails of her attention
    for a moment, could notice
    her noticing and so slip through the crack
    between worry and a wider view.
    In twelve step programs they say
    you have to be willing
    to allow grace to enter your life,
    but if you’re not, then perhaps
    you might be willing to be willing,
    and so on, until finally some kind of light
    may find even you, however cranky
    and rain-splattered, however far
    you think you are from home.

    --Alison Luterman

    KIẾP SAU XIN GIỮ LẠI ĐỜI CHO NHAU!

    Phạm Hiền Mây

    I. NHÀ THƠ DU TỬ LÊ

    Tên khai sinh của Du Tử Lê là Lê Cự Phách. Ông sinh năm 1942 tại Hà Nam, Việt Nam và mất năm 2019 tại Orange County, Hoa Kỳ.

    Du Tử Lê là một nhà thơ. Đương nhiên rồi. Và là một nhà thơ tên tuổi.

    Ông cũng từng là sĩ quan quân đội, từng là thư ký tòa soạn và giáo sư thỉnh giảng. Từng được giải thưởng văn chương toàn quốc. Từng là một trong ba nhân vật đặc biệt được nêu tên cùng với Mai Thảo và Phạm Duy vào năm 1975.

    Nếu Google, hẳn chúng ta sẽ ngợp trước các thông tin vinh dự về ông, nào là nhà thơ châu Á duy nhứt được hai tờ báo lớn của Mỹ đăng thơ và phỏng vấn. Nào là thơ ông được đưa vào làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại các đại học Mỹ và châu Âu. Rồi thì có tên trong tuyển tập thi ca thế giới. Và, nổi tiếng này. Và, lừng danh kia.

    Nếu hỏi tôi, lúc này đây, ngay lúc này đây, lúc tôi đang gõ những con chữ này đây, rằng thì là, tôi thích thơ ai nhứt, trong số các nhà thơ hiện đang ở tại hải ngoại sau năm 1975, thì tôi sẽ trả lời ngay mà không chần chừ, ngần ngại – Du Tử Lê.

    Nếu hỏi tôi tiếp, rằng thì là, tôi thích vì lẽ gì, thì tôi cũng thưa ngay mà không cần do dự, nghĩ suy, tôi thích, vì thơ ông hợp với tạng tôi.

    Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi, thơ ông đẹp.

    Đẹp và có chiều sâu.

    Từ cái cách đặt dấu câu, như dấu chấm, dấu phẩy và các loại dấu khác của ông trong thơ, cho đến việc dụng những chữ thơ mang tính nhỏ nhẹ, mềm mại, dịu dàng, ngay cả khi cuộc tình, ngay cả khi cuộc đời ông, đang ở mức đớn đau, thống khổ nhứt, cũng đều khiến tôi thích.

    Từ những ý tưởng sẵn sàng chấp nhận phần thiệt thòi, sẵn sàng hy sinh đời mình hết cho tình, đến những nỗi sầu muôn niên về thân phận, về kiếp người, về nỗi buồn ly hương, về nỗi nhớ thương vời vợi, và cả nỗi cô đơn rất đặc trưng của nòi văn nghệ sĩ, tôi cũng thích nốt.

    Một bạn văn thân thiết của tôi, nhận xét, thơ ông điệu, có phần đỏm dáng. Tôi liền tra xem, đỏm dáng là gì, thì ra, đỏm dáng là đẹp một cách chải chuốt.

    Cũng có thể là như thế, Du Tử Lê dụng từ khá chải chuốt. Nhưng đã sao? Chải chuốt, trau chuốt từ ngữ khi làm thơ, khi viết văn, với tôi, là việc chẳng có gì sai, chẳng có gì xấu. Nó là một phần của tính cách cầu toàn, toàn mỹ, toàn bích. Nó thuộc về tính người. Mà ngẫm lại, tôi cũng như thế, hệt ông.

    Nếu trước khi nói, người cẩn thận phải uốn lưỡi bảy lần, thì khi viết, tôi cũng chọn đi chọn lại trong đầu ngần ấy lần những từ, những ngữ, cho đến khi nào tôi thấy ổn, cho đến khi nào tôi thấy vừa ý mình rồi, tôi mới đặt bút xuống, hoặc gõ xuống bàn phím.

    Tánh cách kỹ lưỡng, thận trọng ấy, thể hiện sự tôn trọng người đọc, bạn đọc. Trọng người, người tất sẽ phải trọng ta.


    II. BÀI THƠ GIỮ ĐỜI CHO NHAU

    Tôi không biết chắc chắn số thi phẩm mà thi sĩ Du Tử Lê để lại cho đời là bao nhiêu, nhưng từ Mỹ, bà Hạnh Tuyền, vợ của ông, gởi người mang về tặng tôi bộ Thơ Du Tử Lê (Toàn Tập), với lời đề: Gửi em Phạm Hiền Mây, như một lời cảm ơn của anh chị. Thay mặt anh Du Tử Lê. Chị Hạnh Tuyền ký tên. Cali, Jan 05, 2024. Thì mỗi tập với độ dày cỡ năm, sáu trăm trang, chứa khoảng một trăm năm mươi bài cho một tập. Tổng tập như vậy là khoảng sáu trăm bài thơ có.

    Sáu trăm bài thơ. Bây giờ, giả sử có người hỏi tôi, tôi thích bài nào nhứt, thì… , chịu. Số bài thơ mà tôi thích, có lẽ cũng phải cỡ vài mươi bài.

    Một phóng viên báo nọ thống kê, có khoảng ba trăm bài thơ của Du Tử Lê được phổ nhạc. Nếu con số ấy là có thực, thì tôi cho rằng, Du Tử Lê, có lẽ là nhà thơ có số lượng thơ phổ nhạc nhiều nhất nước Việt Nam.

    Như bài dưới đây chẳng hạn, được Phạm Duy phổ thành ca khúc Kiếp Sau Xin Giữ Lại Đời Cho Nhau và Từ Công Phụng phổ thành ca khúc Giữ Đời Cho Nhau (Ơn Em).

    GIỮ ĐỜI CHO NHAU

    ơn em, thơ dại từ trời
    theo ta xuống biển vớt đời ta trôi
    ơn em, dáng mỏng mưa vời
    theo ta lên núi về đồi yêu thương
    ơn em, ngực ngải môi trầm
    cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan
    ơn em, hơi thoảng chỗ nằm
    dấu quanh quẩn dấu nỗi buồn một nơi
    ơn em, hồn sớm ngậm ngùi
    kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.

    Bài thơ được viết năm 1970, khi ấy, ông chỉ mới hai mươi tám tuổi.

    Tôi nói, chỉ mới, có nghĩa là tôi ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì trẻ thế mà đã viết được một bài thơ với những lời lẽ đằm thắm, già dặn đến thế.

    Trong tình yêu, ít ai còn trẻ mà biết ơn nhau lắm. Cần phải có một độ dài tương thích về thời gian thì người ta mới có thể, lắng lòng lại, mà nghĩ về, mà tổng kết về những gì họ đã trao cho nhau, cả hạnh phúc lẫn khổ đau, để rồi từ ấy, mới có thể thốt lên một cách chân thành, sự biết ơn với người yêu, với người bạn đời của mình.


    II.1. ƠN EM, THƠ DẠI TỪ TRỜI

    ơn em, thơ dại từ trời
    theo ta xuống biển vớt đời ta trôi
    ơn em, dáng mỏng mưa vời
    theo ta lên núi về đồi yêu thương

    Thơ, đôi khi chỉ là một nghĩ suy bất chợt, vừa lóe lên, vừa khám phá ra, vừa nhận thức ra, của người viết, về tình yêu, về thế thái, về cuộc đời, chẳng hạn.

    Và không hiếm, sau vài dòng, sau vài trang giấy bày tỏ những nghĩ suy của tác giả, thơ hiện ra, mỏng tang, mơ hồ, vô định, không có đường nét rõ ràng. Thậm chí, có những bài thơ, đọc tới đọc lui vài lần, mà người đọc vẫn cứ ngẩn ngơ, không biết ý tác giả muốn nói gì.

    Thơ, nhiều lúc, chỉ có thể cảm, cảm giác, cảm về tiết điệu, cảm về chữ dùng, cảm về “chất” thơ, cảm về “mùi” thơ, chớ không phải lúc nào cũng hiểu được.

    Nói như Tạ Trân, nhà thi thoại đời nhà Minh bên Trung Hoa, thì: Thơ có chỗ khả giải, bất khả giải, bất tất giải, giống như hoa dưới nước, trăng trong gương, không cần câu nệ tới dấu tích.

    Sở dĩ tôi phải dài dòng như vậy, vì, thơ mang dấu ấn cá nhân, tức tâm tình riêng của người viết, nhiều lắm. Và không phải bất kỳ tâm tình riêng nào của họ, mình cũng rõ được.

    Bài thơ Giữ Đời Cho Nhau, là bài thơ mà Du Tử Lê viết về vợ ông, viết tặng vợ ông, bà Phan Hạnh Tuyền.

    Nên “thơ dại” đây, có lẽ, ngày ấy, bà còn trẻ, nên còn mang nhiều nét ngây thơ, hồn nhiên, như các nàng tiên nơi thượng giới.

    Và “theo ta xuống biển vớt đời ta trôi”, liệu có phải nói về chuyến di tản năm 1975 của ông bà? Thêm vào đó, nhà thơ thường tự nhận mình là “du tử”, kẻ giang hồ phiêu bạt, nên dùng câu “đời ta trôi” để mô tả mình cho thích hợp chăng?

    Còn “dáng mỏng mưa vời” là vì Huế quanh năm suốt tháng, mưa dầm mưa dề? Là vì bà Hạnh Tuyền, dáng gầy, lại mặc áo dài đi dạy học, nên nhìn nàng rất mong manh, mỏng mảnh?

    Cuối cùng, “theo ta lên núi về đồi yêu thương”, có phải là ông muốn nhắc đến kỷ niệm, đã “dụ” thành công được bà, xin thuyên chuyển từ Huế về Pleiku dạy học, để gần nơi ông đang công tác?

    Tôi đoán thế thôi, chớ đọc thơ ấy mà, chẳng cần phải cặn kẽ, chi li, tiểu tiết, bổ ngang, bổ dọc như vậy, chỉ tổ nát bấy bài thơ, nát bấy tính thơ.

    Tôi là chúa ghét kiểu đọc thơ như thế này. Tôi đọc thơ lớt phớt, cảm thơ là chính. Cái gì được gọi là thơ thì tự nhiên nó luẩn quẩn hoài trong đầu, cái gì tào lao, không chút tính thơ, nó sẽ tự động bị đẩy ra ngay!


    II.2. ƠN EM, NGỰC NGẢI MÔI TRẦM

    ơn em, ngực ngải môi trầm
    cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan
    ơn em, hơi thoảng chỗ nằm
    dấu quanh quẩn dấu nỗi buồn một nơi

    Nhiều người thắc mắc “ngực ngải” là gì, “môi trầm” là gì, “cỏ mặn” là gì, “lá ngoan” là gì?

    Với tôi, đây chính là khả năng sáng tạo ngôn ngữ của nhà thơ.

    Khả năng sáng tạo ra những hình ảnh ẩn dụ, mà nếu tác giả không nói ra, thì người đọc cũng chịu, không biết nhà thơ đang muốn ám chỉ đến điều gì.

    Nhưng lại tuyệt tới mức, ngay cả khi người đọc không hiểu, mà vẫn thấy những khó hiểu ấy hay hay, mà vẫn thấy câu thơ rất nên thơ.

    Ngực ngải, môi trầm, có phải là muốn nói đến vẻ đẹp quyến rũ, đầy sức hút của cơ thể người con gái?

    Cỏ mặn, là nước mắt của em, trong hiến dâng lần đầu? Lá ngoan, là sự ngọt ngào, ấm áp, khi đôi tình nhân gần kề nhau, và trao cho nhau hết tất cả những âu yếm, nồng nàn thịt da?

    Em đến, và em đi. Hương thơm da thịt em, như vẫn chỗ nằm kề, khiến anh chỉ muốn đắm chìm hoài trong biển của hạnh phúc, mà em vừa trao anh.

    Nhưng vì hương ấy, chỉ còn chút, chỉ như thoảng qua, thành thử, anh tìm không ra. Dấu vết quanh quẩn ấy, đã làm anh buồn suốt những ngày phải xa em!


    II.3. ƠN EM, HỒN SỚM NGẬM NGÙI

    ơn em, hồn sớm ngậm ngùi
    kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.

    Tình yêu, nào chỉ có niềm vui và hạnh phúc. Tình yêu, nhiều hơn những vị ngọt ngào, là nỗi buồn, là đớn đau, là thất vọng, là ê chề, là não nùng, sầu khổ.

    Du Tử Lê cũng không ngoại lệ.

    Có những lúc, trong tình yêu, ông cũng cảm ra nỗi ngậm ngùi, thấy ra muôn vàn tâm trạng khi thăng, khi trầm, khi say mê, si dại, khi chán chường, bế tắc.

    Nhưng có hề chi.

    Lòng chàng đã quyết. Ý chàng đã định.
    Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau!


    III. CA KHÚC GIỮ ĐỜI CHO NHAU (ƠN EM) CỦA NHẠC SĨ TỪ CÔNG PHỤNG

    Khi phổ thành nhạc, Từ Công Phụng không hề bỏ bớt một chữ thơ nào của Du Tử Lê. Ông giữ trọn vẹn bài thơ Giữ Đời Cho Nhau, chỉ thêm vào khổ thứ ba hai câu: Ơn em, tình những mù lòa / Như con sâu nhỏ bò qua giấc mùi.

    Hai câu này của Từ Công Phụng, cũng rất thơ.

    Ngoài ra, Từ Công Phụng còn thêm vào những câu điệp sau mỗi đoạn: tạ ơn em / tạ ơn em, nhằm nhấn mạnh lòng biết ơn của tác giả với người đồng hành cùng mình trong cuộc trăm năm.

    Ơn em, thơ dại từ trời
    Theo ta xuống biển vớt đời ta trôi
    Ơn em, dáng mỏng mưa vời
    Theo ta lên núi về đồi yêu thương
    Tạ ơn em. Tạ ơn em.
    Ơn em, ngực ngải môi trầm
    Cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan
    Ơn em, hơi thoảng chỗ nằm
    Dấu quanh dấu quẩn nỗi buồn một nơi
    Tạ ơn em. Tạ ơn em.
    Ơn em, tình những mù lòa
    Như con sâu nhỏ bò qua giấc mùi
    Ơn em, hồn sớm ngậm ngùi
    Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau
    Tạ ơn em. Tạ ơn em.


    IV. DU TỬ LÊ, NGƯỜI CÁCH TÂN VÀ TẠO ĐƯỢC SỰ ĐỘC ĐÁO RIÊNG VỀ VỊ TRÍ DẤU CÂU TRONG THƠ

    Nhiều người cho rằng, những hằng hà sa số các dấu câu trong thơ Du Tử Lê, là một kiểu của cách tân lục bát.

    Nhận định như vậy, cũng chẳng gì sai. Nhưng với tôi, các dấu câu được sử dụng một cách rất Du Tử Lê – tức trong ngữ pháp hiện hành của Tiếng Việt xưa nay, người ta sử dụng khác – nếu có mang mục đích cách tân, thì cũng chỉ là ít thôi, không đáng kể. Lớn hơn, đó là chủ đích trong việc trình bày, đây là tôi, đây chính là tôi, Du Tử Lê, người viết bài thơ này.

    Việc làm mới lục bát ấy mà, không chỉ Du Tử Lê, mà với bất kỳ một người làm thơ nào, yêu thể thơ lục bát, và cảm thấy mình có trách nhiệm với thể thơ này, đều mong muốn làm mới nó.

    Nhưng ngoài việc làm mới, tôi nhận ra, đó còn là cách ông mang thơ đến gần với người đọc thơ ông hơn. Thay vì, phải giải thích hết lời với bạn đọc, rằng bài ấy có nghĩa thế này, rằng bài đó có nghĩa thế kia (thế thì còn gì là thơ nữa), thì ông nhắn nhủ, hãy đọc thơ tôi cùng với những dấu câu kèm theo.

    Bạn biết dấu câu trong ngữ pháp đóng vai trò gì không? Dấu câu là ranh giới, nhằm phân biệt thành phần này với thành phần nọ, câu này với câu kia, ý này với ý đó.

    Vì vậy, đọc thơ Du Tử Lê (hay bất kỳ thơ ai khác), bạn hãy chậm lại, dừng lại ở các dấu câu, rồi hãy nhẩn nha đi tiếp. Đừng vội vàng. Đọc thơ, xin đừng vội vàng và cũng đừng ôm đồm. Cứ từ từ, chầm chậm, bạn sẽ ngạc nhiên đến vô cùng khi chợt thấy mình thấu đáo đến từng ngõ ngách của bài thơ, bởi bằng việc đọc chậm, bởi bằng việc, mình biết dừng khẽ lại vài giây, để ngẫm nghĩ, sau mỗi dấu câu.


    V. NHỮNG CHUYỆN VIẾT THÊM VỀ DU TỬ LÊ

    Trước hết là về bà Phan Hạnh Tuyền.

    Bà Hạnh Tuyền vốn là một cô giáo. Bà tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế năm 1974.

    Hạnh Tuyền không chỉ là người yêu, người bạn đời, bà còn là người yêu Du Tử Lê nhiều nhất. Bà sống cho ông, sống vì ông, bằng hết cả cuộc đời mình.

    Ông mất, đến nay, cũng đã gần được sáu năm. Bà vẫn tiếp tục cố gắng duy trì trang nhà Du Tử Lê. Còn trang facebook chung của ông và bà xưa kia, thì nay vẫn hoạt động đều đặn, với tràn ngập hình ảnh ông, tràn ngập kỷ niệm ông và thơ của ông.


    Riêng với tôi, Du Tử Lê là ân nhân.

    Chín năm trước, khi họa sĩ Khánh Trường, người bạn vong niên thân thiết nhứt của tôi, nhờ ông viết Tựa cho cuốn thơ đầu tay, Lục Bát Phạm Hiền Mây, ông ngay lập tức nhận lời.

    Ông ngay lập tức nhận lời, ngay cả khi, giữa tôi và ông, chưa từng quen biết nhau. Ông viết lời giới thiệu dựa trên bản thảo thơ do anh Khánh Trường gởi qua.

    Bài Tựa Du Tử Lê viết cho cuốn thơ đầu tiên của tôi, có nhan đề: Phạm Hiền Mây, Treo Cao Lục Bát Vàng Son.

    Ông viết nhận định về tôi, dài hai trang A4, xin được trích lược vài dòng hầu bạn đọc:

    Hôm nay, tôi xin gửi sự khâm phục của cá nhân tôi vào thi phẩm Lục Bát Phạm Hiền Mây.

    Phạm Hiền Mây là người tình chung thủy của lục bát, nên tôi tin, người đọc sẽ không ngạc nhiên lắm, khi ngay từ những vần thơ thứ nhất của thi phẩm Lục Bát Phạm Hiền Mây, đã tươm đậm hồn tính ca dao Việt Nam ngày qua và, những so sánh hay liên tưởng đương đại:

    bụi hoa xưa đã lên vài
    nhánh vàng cổ tích dốc dài tình nhân

    (trích “giữ lời tìm nhau”)

    Hay:

    mặn em nhỏ xuống chẳng dừng
    trên vai anh ướt không ngừng trời mau
    mưa nghiêng trút xuống nỗi đau
    trái oan khiên chín đỏ au phận người
    vết thương chín mọng ngực đời
    và em quả chín rụng lời từ ly.

    (trích “vô thường nhỡ mai”)

    Khởi tự tính từ “mặn” chỉ nước mắt, trên vai người yêu, Phạm Hiền Mây dùng lục bát để dẫn cơn mưa, nỗi đau, đi lần tới “trái oan khiên chín đỏ”, là sự rụng xuống (không thể khác hơn?) của những lời từ ly.

    Hoặc nữa:

    nắng lâm chung tắt thình lình
    chưa hoàng hôn đã một mình niềm riêng
    môi vào nhau sớm thần tiên
    dậy thì đánh rớt tháng giêng nhớ người.

    (trích “tháng giêng nhớ người”)

    Bằng vào ghi nhận của tôi, Phạm Hiền Mây không chỉ có khả năng nhân cách hóa một cách bất ngờ mà, họ Phạm còn có khả năng làm mới thơ mình bằng vào những tương tác vi tế mà, nếu không phải là người nữ, tôi e, các tác giả khác, sẽ rất khó cảm và nhận. Thí dụ:

    mùa đông, một sớm mùa đông
    không dưng em mắt môi nồng tình anh.

    (trích “mình yêu nhau nhé")

    Hoặc:

    tiễn anh đếm lá hồn mình

    (trích “phù du yêu người”)

    Hoặc nữa:

    tóc dài ngọn hẹn rưng rưng
    chờ giây phút được giọng mừng dạ thưa.

    (trích “nhớ anh thôi đã rất thừa mùa đông")

    Bên cạnh đó, Phạm Hiền Mây cũng cho thấy chủ tâm khai thác từ kép của Tiếng Việt, để dòng chảy thi ca có được nhịp lẻ, khác hơn nhịp chẵn hay đều (2/2/2 hoặc 3/3) quen thuộc, nhàm chán:

    đời em mộng sóng lênh đênh
    ướt em giấc ngủ muộn bềnh bồng trôi.

    (trích “lênh đênh sóng rồi")

    Vì tính từ “bềnh bồng” là từ kép, không thể tách bạch, nên nhịp đi của câu thơ tám chữ này, với tôi, ít nhất cũng có được cho nó hai nhịp lẻ là:

    ướt em / giấc ngủ / muộn bềnh bồng / trôi.

    (2/2/3/1)

    Tôi còn một kỷ niệm nữa, với Du Tử Lê, do chính bà Hạnh Tuyền kể lại:

    “Anh Lê khen tên em lắm. Anh nói, cái tên Phạm Hiền Mây ấy mà, đọc lên, nghe rất hay, rất thơ.”

    Và, thơ tôi, ngay từ khi mới trình làng (cũng như cho đến mãi mãi về sau), tôi không bao giờ viết hoa các chữ đầu câu. Thậm chí, tên riêng, trong thơ, tôi cũng viết thường luôn. Điều này, tôi thừa nhận, tôi chịu ảnh hưởng của các tiền bối Hoàng Lộc, Du Tử Lê, và sau này, tôi mới biết, cả nhà thơ Đỗ Trung Quân cũng có thói quen như thế.


    VI. KIẾP SAU XIN GIỮ LẠI ĐỜI CHO NHAU

    Bạn có tin, chết không là hết?

    Bạn có tin, chúng ta sẽ luân hồi và tái sinh?

    Bạn có tin, duyên nợ?

    Điều này, có lẽ còn phụ thuộc vào tôn giáo mà bạn đang theo. Còn tôi, thì tôi tin. Tôi rất tin.

    Tin, để trước hết, biết sợ. Biết sợ sống sai. Biết sợ làm ác. Biết sợ gánh không nổi những tội lỗi mình đã gieo. Biết sợ nghiệp quả, sẽ đến ngay trong cả kiếp này, chớ không chỉ những kiếp mai sau.

    Tin, kế tiếp, để tự an ủi mình trong những lúc lên bờ xuống ruộng, lúc đường đời không như ý, không bằng phẳng. Tin, để tự vỗ về mình trong những lúc vất vả, khó khăn. Tin, để tự dỗ dành mình trong những lúc khổ đau, tuyệt vọng. Và tin, để tự biết răn đe mình, khi đã gắng hết sức rồi, mà vẫn thất bại, không may.

    Tin, để cuối cùng, biết nuôi hy vọng.

    Tôi, cũng như Du Tử Lê, không khác mảy may.

    Tôi sống trong mỗi ngày, cân nhắc từng nghĩ suy, cân nhắc từng lời nói ra hay viết xuống, cân nhắc từng thái độ, hành vi của mình.

    Và, ngày nào cũng như ngày nấy, hệt Du Tử Lê, bất di bất dịch, tôi niệm lời hẹn ước, không thay không đổi với Người. Tất nhiên, đó là Người mà tôi viết hoa, viết hoa vì không chỉ yêu mà còn là sự tôn trọng. Người đương trong trí óc tôi đây, Người đương trong trái tim tôi đây, rằng:

    KIẾP SAU XIN GIỮ LẠI ĐỜI CHO NHAU!

    Sài Gòn 22.07.2025

    THƠ CHO NHỎ

    Thân ngựa chạy một đêm sầu gió núi
    đứng nhìn theo ngọn suối đứng riêng trời
    hơi thở ngọt em một thời phong kín
    nhớ nhung gì em buộc tóc chia đôi

    Con sóc nhỏ mang hồn lên núi lạ
    ta chim rừng cánh đã mỏi thương đau
    hương cỏ dại mát chân người ngà ngọc
    em bảng đen vôi trắng giết đời nhau

    Trăm con bướm bay về chung một ngõ
    suối xôn xao suối phải tự xuống nguồn
    em áo lụa dáng gầy hơn bóng núi
    rừng ơi rừng cây đợi đã bao năm

    Em tinh khiết giữa đời ta bụi bặm
    gọi ta về trong bóng nắng thơ ngây
    em mới lớn nên tình như thác gọi
    thương dùm ta thân ngựa đã xa bầy

    1971

    ĐÊM, NHỚ TRĂNG SÀI GÒN

    Đêm về theo vết xe lăn
    Tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng
    Tìm tôi đèn thắp hai hàng
    Lạc nhau cuối phố sương quàng cỏ cây
    Ngỡ hồn ta xứ mưa bay
    Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
    Đêm về theo bánh xe qua
    Nhớ em xa lộ nhớ nhà Hàng Xanh
    Nhớ em kim chỉ khứu tình
    Trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
    Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
    Nắng Trương Minh Giản trưa hè Tự Do
    Nhớ nghĩa trang quê hương bạn bè
    Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường
    Đêm về theo vết xe lăn
    Tôi trăng viễn xứ sầu em bến nào?

    1978 - Bài thơ đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc thành bài hát cùng tên
    https://thotanhinhthucviet.vn/product/bao-tho-so-1

    TƯỞNG NIỆM NHÀ VĂN TRẦN HOÀI THƯ

    Thạch Tốt

    Nhà văn Trần Hoài Thư đã rời bỏ thế gian vào ngày 27 /5/2024 đúng vào ngày nước Mỹ đang tưởng niệm Ngày lễ Chiến Sĩ Trận Vong (Memorial Day) 05/27/2024. Mong Anh an nghỉ.

    Tôi có bài viết về 1 tuyển tập thơ văn của anh. Chia sẻ phần tinh anh của anh trong cuộc sống:

    BÃO : HỢP TUYỂN THƠ VĂN TRẦN HOÀI THƯ

    Tôi vừa nhận được Hợp Tuyển Thơ Văn BÃO của nhà văn Trần Hoài Thư do Thư Ấn Quán ấn hành năm 2020 gửi tặng. Xin cám ơn nhà văn THT.

    Gọi là Hợp Tuyển vì nội dung các bài viết được tuyển chọn từ những bài đã post trên blog cá nhân của tác giả suốt nhiều năm qua.

    Tại sao lại lấy tựa đề là BÃO? Vì thật sự có 2 cơn bão đã đi qua đời của tác giả ghi dấu ấn sâu đậm đến nổi không thể nào quên và cơn bão thứ 2 là nổi đau buồn không giới hạn. Đó là:

    Cơn bão Sandy gọi là superstorm Sandy đã tràn qua vùng New Jersey (nơi ngụ cư của tác giả) vào tháng 11 năm 2012 nhưng rất may mắn là đã thoát qua cơn bão hung dữ đó mà không có thiệt hại đáng kể.

    Và cơn bão thứ 2 là sự đột quỵ của chị Y, hiền thê của tác giả chỉ một tháng sau đó. Anh viết:

    “…Cho Y:

    Tôi đã ngồi hàng giờ bên giường bệnh. Tôi may mắn vì cơn bão đã tha, nhưng đổi laị thì lòng tôi đứt đoạn. Bao nhiêu người y tá, bác sĩ, phụ tá y tá đã vào phòng. Bao nhiêu lần tôi theo sau chiếc giường mà Y nằm để đến các phòng chụp hình, chụp ảnh. Bao nhiêu lần tôi nhìn bàn tay Y với những ngón tay bị liệt, không còn đủ sức để co cụm. Bão không thật sự đến với tôi, nhưng bão làm tim tôi nhói đau không tả.

    Ở con đường nhà tôi, những thân cây gãy đổ nằm vắt ngang giữa lộ đã được dọn đi và đường đã đươc khai thông chỉ 4 ngày sau khi trận bão Sandy tàn phá, nhưng có một thân cây rất mong manh. Không một loài sậy có suy nghĩ-vẫn nằm yên, nằm yên từ ngày này qua ngày khác. Đã 7 ngày rồi. Có bàn tay nào có thể nâng nhà tôi dậyđể có thể bước, có thể đi, ngồi bước hay không?

    Có chứ. Bàn tay của tôi. Mỗi ngày tôi đã nắn nót những ngón tay trái bị liệt ấy, bóp, xoa, vuốt, nắn…Tôi tin một ngày chúng sẽ sống lại, máu nóng sẽ hâm từng lóng tay, để những sợi gân bắt đầu tái sinh, luân lưu trở lại. Không ngày này thì ngày khác. Không tháng này rồi đến tháng khác. Còn nữa. Còn những bạn bè của Y, những bạn bè của tôi. Họ tiếp trợ thêm hơi ấm. Tôi tin vậy. Như bông hồng mà bạn tôi đã tặng cho nhà tôi…”

    Nhà thơ (văn) Trần Hoài Thư (THT) là một người đặt biệt. Anh là người mê chuộng sách vở giống như tên thật của anh là Trần Quý Sách như cha mẹ đã đặt tên Suốt cả quảng đời thanh niên của anh là dưới bộ quân phục. Anh đã phục vụ trong đơn vị tác chiến cực nguy hiểm là các đơn vị thám kích trinh sát để khi cần được thả vào các vùng hành quân khởi đầu cho một trận đánh hay dò tìm tin tức để các đơn vị tiếp theo khai triển thế trận:

    “Với khẩu colt lận lưng quần
    với đôi giày bám đặc bùn Nho Lâm
    đêm qua bì bõm băng đồng
    hôm nay bù lại căn phòng chị nuôi
    với xe lam một chỗ ngồi
    vòng vo mấy bận để đời chút hương
    để một ngày thật dễ thương
    trước khi chọc ổ kiến càng Bồng Sơn”

    (Ngày của chàng)

    Là như vậy nhưng trong túi quần hay balô của anh luôn có giấy bút để viết một cái gì khi có thể. Như Victor Basch đã từng nói:

    ”Người làm nghệ thuật là một hiện tượng hiếm hoi”

    ( L’artiste est un phénomène rare”)

    Có nghĩa khẳng định nghệ thuật là một cái gì khác thường ngay cả khi nghĩ về cái chết:

    “Người ta bia đá lưu danh
    Tôi đây bia mộ làm khiên che người
    Người ta tên khắc lưu đời
    Tôi đây đạn khắc lưu ngoài trái tim
    Bia người toàn khắc danh thơm
    Bia tôi sẹo khắc nỗi buồn bắc nam.”

    (Bia Đá)

    Ngày nay người ta không nhìn thi ca như một thực tại tĩnh nhưng là một thực tại động. Không còn là những câu thơ an nghỉ, tiêu cực mà là những câu thơ chi phối tác động lên sự vận chuyển của đời sống. Vì vậy Sartre cho rằng văn chương luôn có tính chất cách mạng là như vậy. Như bài thơ “Nước Lên” chỉ cần nước lên thôi để đưa đoàn quân qua sông:

    “Tặng Cái Trọng Ty
    Nước lên trời thổ mật vàng
    Nủa lan mây núi nửa tràn bãi sông
    Nước lên kéo mặt trời gần
    Khanh vàng lai láng một giòng vàng khanh
    Nước lên quân lội qua sông
    Đầu thì đội súng, mình trần, tay bơi
    Khúc dông vang tiếng nói cười
    Hồn thanh niên bổng một thời ấu thơ
    Nước lên đêm sắp buông màn
    Qua sông những bóng âm thầm qua sông
    Không đò dọc không đò ngang
    Chỉ có chăng là hình nhân lờ mờ
    VớI đầu đội chiếc ba lô
    Với poncho làm chiếc bè chiếc phao
    Súng nòng chỉa mũi lên cao
    Thương cho ông thượng sĩ Nùng thoát y
    Nước lên ngày đã tàn rồi
    Mặt trời đã ngủ sau đồi Kỳ Sơn
    Chỉ có ta là dẫn con
    Qua sông tìm mấy mã mồ viếng thăm
    Nước lên bờ tả đã mờ
    Chỉ còn bờ hữu nắng vàng níu chân
    Nước lên trời cũng tối dần
    Quân qua bỏ lại một giòng quạnh hiu.”

    ( Nước Lên )

    . .Trong thời chiến tranh thì mọi người đều là lính, cả thành phố lẫn thôn quê khói lửa binh biến lan tràn. Một ngày qua đi, còn sống là một ân sủng:

    “Khi tiếng gà đầu tiên vừa gáy trong thôn
    Tôi biết mình là một người may mắn
    Tôi có quyền đốt lên điếu thuốc
    Xếp lại chiếc mền bỏ vào lại ba lô
    Cả đêm qua trời trút xuống trận mưa
    Tôi che súng bằng chiếc poncho sợ ướt
    Mưa ào ạt lính ngủ ngồi ngủ đứng
    Giữa mã mồ người sống chết qua đêm
    Tiếng gà nhà ai trong xóm cất lên
    Rồi tiếp đến cả làng trên xóm dưới
    Tiếng gáy rộn ràng chào mừng ngày mới
    Lại thêm một ngày còn sống để hân hoan
    Đây là bản đồng ca sau một đêm trường
    Bản hợp xướng trời cho lòai người miễn phí
    Một tiếng gáy khởi đầu cất tiếng
    Rồi trăm ngàn tiếng gáy khác cất lên
    Tiếng gáy vang lừng xóm dưới làng trên
    Như chiếc đồng hồ không kim đúng giờ báo thức
    Hãy dậy đi hỡi những người con ăn sương nằm đất
    Hãy hân hoan vì đêm sắp hết rồi
    Thêm một ngày một ngày có mặt trời
    Thêm một ngày được bình an vô sự
    Cám ơn những chú gà vô danh ở các làng ta về gìn giử
    Cám ơn bài hợp ca không nhạc trưởng nhac công
    Không hòa âm hòa tấu giàn trống kèn đồng
    Không ca sĩ không đèn màu không vỗ tay
    Chỉ tiếng gáy ò ó o lan truyền trong thinh không vọng lại
    Sao ấm vô cùng như hơi thuốc đầu tiên
    Tay chuyền nhau chiếc hộp lửa que diêm
    Lửa sáng lên thấy bạn mình cười theo ánh mắt
    Từ xa xa mập mờ ngọn đồI Bánh Ít
    Bóng tháp vươn lên đón kẻ trở về.”

    (Bản tấu khúc ân sủng).

    Trong tuyển tập này, anh gom lại những sáng tác thơ văn, tùy bút , truyện ngắn thành những chuyên mục gồm; một thời khói lửa/một thời khổ sai/những bài thơ từ Bidong/những bài thơ trên đất mới và những trang văn tuyển . Đặc biệt là anh có những bài thơ nói về hiền thê của anh , về những ngày chị ở trong nursing home đã nhiều năm qua. Và thật sự vui mừng khi một ngày mới lên chan hòa ánh nắng:

    “Có một người năm năm chưa biết nắng là gì
    Ngày ngày cứ nằm dài trên chiếc giường
    Nhìn lên trần phòng
    Đôi mắt không có nắng chiếu từ lâu
    Chỉ thấy ánh đèn
    Dù sáng nhưng không còn linh động
    Tôi đến thăm nuôi mỗi ngày hai bận
    Việc đầu tiên là kéo chiếc màn lên cao
    Để nắng có thể lọt vào
    May ra đời còn một chút lạc quan
    Vì nắng chính là sự sống
    Tôi vẫn hay sửa lại thân người cho ngay ngắn
    Kê lại đầu người lên trên chiếc gối êm
    Điều chỉnh lại chiếc giường cho vừa tầm
    Đắp lại cái chăn mền vương vãi
    Và có khi lòng dưng bàng hoàng run rẫy
    Khi thấy nắng làm óng ả mái tóc của người
    Đã ở tuổi xế chiều mà tóc vẫn một màu đen tuyền
    Nắng càng làm cho mái tóc trở nên bóng
    Như màu gỗ mun trắc
    Tôi đã vuốt trên mái tóc
    Và dịu dàng hôn như nắng đã hôn
    Tôi vẫn còn nghe như mùi bồ kết tỏa hương thơm
    Cọng thêm cả mùi hương ngạt ngào của
    Bảy năm dà khổ nạn
    Bây giờ đã hơn ba tháng tôi và người cách biệt
    Chỉ mong được vào phòng quen thuộc
    Để kéo lên cái màn che cửa rồi ra về
    Và nắng thay tôi hôn lên mái tóc của người
    Vậy mà một hôm người không cần nắng lọt vào
    Mà vinh quang ngồi trên xe lăn để người ta
    Đẩy ra ngoài cùng với nắng
    Mây trên cao trần trời xanh một màu ngọc bích
    Hàng dẽ, hàng sồi cùng đội những chiếc mũ biếc xanh
    Những người lính tiền đồn ăn mừng chiến công
    Không vòng hoa nhưng vỗ tay mừng những người thoát hiểm
    NgườI ngồi trên xe nhìn người xung quanh
    Tung hô bằng tiếng Anh, tiếng Mỹ
    Chỉ có tôi la bằng tiếng Việt
    Hoàng hậu muôn năm.

    ( Nắng…)

    Nhà văn Trần Hoài Thư là chủ biên của tập san Thư Quán Bản Thảo đã xuất hiện dễ chừng đã 20 năm nay. Số mới nhất 89( tháng 6-2020 ) chủ đề Thơ Văn Mùa Đại Dịch vừa mới phát hành. TQBT là một tạp chí với một mục đích riêng biệt và chủ yếu là sưu tập những tác phẩm và tác giả của nền văn học Miền Nam trước 75 nhằm lưu giử, phục hồi lại cái giá trị của thế giới con người. Cái nghệ thuật cao mà văn chương và nghệ thuật để lại luôn luôn có một vị trí danh dự. Nhà văn THT còn lập Thư Ấn Quán, một nhà in với kỹ thuật của riêng anh làm từ A đến Z để in lại các tác phẩm văn học và báo chí trong đó biết bao nhiêu là tim óc, tài năng sáng tạo không thể kể hết cùa một thới văn học Miến Nam hưng thịnh, tự do nhân bản.

    Để kết luận, điều không thể phủ nhận, anh là một nhân vật phi thường với một nghị lực và một sự hiểu biết. Hiểu biết ở đây là hiểu biết lý tính ( savoir rationnel ) chứ không phải hiểu biết thường nghiệm. Hiểu biết tại sao chứ không phải hiểu biết rằng. Vừa lo chuyện gia đình vừa dồn toàn tâm ý để làm báo, in ấn dù được bạn bè ủng hộ vẫn còn sự lo âu nhưng trong lo âu con người mới ý thức được tự do ( Sartre ).

    TUẦN THƠ 51: Gửi Một Chấm Nhỏ

    “Rainy Afternoon” by Truong Minh Dine, Vietnam. Grand Prize. A woman transports potatoes to a local market. Her earnings help feed two children and her husband.
    “Rainy Afternoon” by Truong Minh Dine, Vietnam. Grand Prize. A woman transports potatoes to a local market. Her earnings help feed two children and her husband.
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát
    Phạm Bình Minh

    GỬI MỘT CHẤM NHỎ

    Thiền văn-ChatGPT-20/7/2025

    Nếu loài người thực sự
    mạnh/ đã không cần đến
    những chiếc ghế quyền lực
    để ngồi vững/ không cần
    đến kho vũ khí hạt
    nhân để giữ lời nói
    khỏi run rẩy/ nếu loài
    người thật sự văn minh
    đã không cần phải thuyết
    phục nhau bằng máu/ không
    phải đốt sạch mùa màng
    để đổi lấy tự do giả
    tạo/ họ tự xưng là
    kẻ thống trị hành tinh/
    nhưng một cơn gió lạ
    cũng đủ khiến cả thế
    giới đóng cửa/ họ chạm
    đến tầng cao vũ trụ/
    nhưng không cứu nổi một
    đứa bé vừa bị bom
    dội xuống mái nhà/ có
    những giống loài không cần
    tiếng nói/ vẫn truyền thông
    qua ý niệm/ có những tầng
    sống cao hơn không xây
    dựng bằng thép mà bằng
    ánh sáng của trí huệ/
    và có những vị giữ
    luật của các vì sao/
    vẫn lặng lẽ theo dõi
    sự ngạo mạn nơi trái
    đất/ không trừng phạt bằng
    sấm sét/ mà bằng hậu
    quả không ai tránh khỏi/
    không ai là vô địch
    khi còn phải ngủ, phải
    thở, phải yêu, phải khóc/
    không một quốc gia nào
    là cường quốc nếu nhân
    dân họ bị bỏ đói
    tâm hồn/ và không một
    chiến thắng nào là vĩnh
    cửu nếu đạt được bằng
    cách giết đi lòng từ
    trong chính mình… chính mình

    Ghi chú: viết trong đêm tĩnh lặng giữa những tin chiến sự đang dâng cao, như một lời gửi đến loài người-đang quên rằng mình chỉ là một chấm nhỏ trong vô cùng...



    Nguyễn Lương Ba

    N G Ư Ờ I B Ạ N Ở T H À N H P H Ố D E N T O N

    Hình chụp với người bạn Mỹ, sinh viên UTA. Làm việc part time.(photo summer 2022)

    Hành động đó đã lấy
    đi hết trái tim tôi,
    tôi đã không nghĩ đến
    Kaison. Cho đến khi mọi
    chuyện kết thúc, tôi đã
    cất giọng điệu của mình
    đi và rồi không còn
    cơn thịnh nộ lạnh lẽo
    và hoàn hảo chạy dọc
    theo xương gầy của tôi
    nữa, và rồi không còn
    những hành lang đen tối
    và nhỏ giọt nữa, giữ
    nguyên hình dạng mà tôi
    đã đến để ở lại .


    NHỮNG CÔ GÁI ĐÓ

    Tôi bị mê hoặc bởi những cô gái đó
    bạn biết đấy
    những người phụ nữ luôn là con gái
    cơ thể nhỏ bé của họ như những cây liễu
    được kiểm soát và uốn cong
    có thể thổi bay
    sự thất vọng nhỏ nhất


    XÚC XÍCH

    Khi đứng chờ nơi khoang hành lý
    một người phụ nữ đã nhìn vào hành lý của tôi
    cô ấy đeo một chiếc khẩu trang che mặt
    một nốt ruồi hiện rõ trên cằm cô ấy
    Cô ấy cười trong khi xúc xích
    rơi ra khỏi túi trong cơn run rẩy dữ dội
    tôi hy vọng cô ấy nhớ chúng vô cùng

    15/6/2025

    NHỮNG GÌ CHÚNG TA BIẾT

    Không phải là trí tưởng
    Tượng không phải là nỗi
    Đau buồn hay niềm vui
    Không phải là trạng thái
    Hồ hởi hay là phấn
    Khích hay là buồn bã
    Người bạn thật sự giản
    Đơn còn muốn gì nữa
    Khi nho biến thành rượu
    Khi bầu trời đêm đổ
    Xuống như một đám đông
    Lúc rạng sáng một người
    Đàn ông muốn đi tắm
    Hơi họ đi cạnh nhau
    Dọc theo con đường khi
    Họ di qua nhà thờ
    Tiếng gọi cầu nguyện Chúa.

    2/6/2025

    ĐÂY XỨ HUẾ

    Đây xứ Huế yêu kiều và diễm lệ
    Trai nơi đây nhút nhác nhưng đa tình
    Yêu tất cả trải lòng ra vạn ngã
    Đây là sông Hương
    Là nàng tiên xứ Huế
    Đây là Hàng Bè
    Và đây là Bờ Sông Gia Hội
    Bao năm rồi soi bóng hàng dừa
    (Có ông Cả Điên ném lon ve chai
    Xuống sông)
    Mong nối lại nhịp cầu hai bên
    Lại có bác Ấm mỗi ngày tưới cây
    Đây xứ Huế đây là đất Nam Phổ
    Có cau ngon của bà mẹ Thần Kinh
    Đây xứ Huế đường Trung Bộ
    Rồi đường Gia Hội
    Có bún bò Mụ Rớt
    Rớt mà thích ăn ớt thế mới hay.

    Bài thơ này tôi làm lúc 15,16 tuổi gì thôi. Đang học trường Nguyễn Du ở Huế. Lúc hồi cư về lại thành phố, gia dình tôi ở xóm Gia Hội , một khu phố rất sầm uất dọc hai bên bờ sông , một nhánh sông đào của sông Hương chảy lặng lờ về tận Bao Vinh. Riêng xóm tôi ở kể từ đầu cầu Gia Hội đến chùa Diệu Đế có những giai thoại mà tôi có nhắc đến trong bài thơ.
    Trên con đường Bạch Đằng có phủ ông Cả Điên. Hồi đó tôi còn nhỏ quá, không biết ông bị điên lừ lúc nào, ông thường lững thững đi một mình miệng cứ lẫm nhẫm không ai biết ông nói cái gì..Ông ở một mình trong phủ. Nghe kể lại có đêm ông thức dậy la hét như lên cơn ai cũng sợ. Điều mình kể ở đây, ông là anh của Bà Trần văn Chương Ông bà Chương nguyên là Đại sứ VNCH tại Mỹ.Ông bà Chương là bố mẹ của bà Trần Lệ Xuân Bà Xuân kêu ông là Cậu ruột. Mỗi lần ra Huế, thấy xe cộ đậu đầy trước phủ, biết rằng Bà đến thăm. Còn nhà Bác Ấm cách nhà tôi mấy căn là bố vợ của Đại Tà Nguyễn Khương Đt Khương là chỉ huy trưởng Truyền Tin thời TT Diệm Ông tham gia đảo chánh 1963 nhưng sau di ra ngoại quốc mất luôn tên tuổi. Những chữ viết này là ký ức tự nhiên tìm thấy.


    Chu Sơn

    KỶ NIỆM

    Cánh én bay đi
    ái ân lịm chết
    con thuyền tình mất
    hẳn lối sang ngang
    bến thơ xưa vò
    võ bóng trăng vàng
    đêm thao thức nghe
    lòng tê tái lạ
    cuộc đời hôm qua
    muôn người chực ngã
    cây úa tàn thân
    xác đứng chơ vơ
    tôi cùng em chắp
    lại mối duyên hờ
    ôm siết lấy đôi
    bàn tay rớm máu.


    LÝ DO

    Bàn tay của thiên đường cứu rỗi
    giấc ngủ mùa thu này có tên em
    con đường vào rừng sâu này không
    chắn lối con đường vào rừng sâu

    này không tội lỗi quanh chúng ta
    nghệ thuật và ái tình. Thành phố
    này đã bao lần tôi từ chối
    vì thiếu bóng em tình yêu và

    tất cả thành phố này đã bao
    lần tôi từ giã những hình hài
    những khuôn mặt ngây ngô và
    trong tôi em chưa đến bao giờ.

    Tôi muốn về quê hương tôi muốn
    dệt vạn tình thương nơi đây mười
    mấy năm tù ngục tôi uất ngẹn
    chán chường. Và giấc ngủ mùa

    thu này có tên em giấc ngủ
    mùa thu này có tên một người
    con gái lần đầu tiên tôi tiếp
    nhận trong hồn lần đầu tiên

    tôi thấy mình còn liên lạc thành
    phố này và những khuôn mặt ngây
    ngô. Thành phố này vẫn còn bóng
    dáng tôi thằng con trai khố nạn

    mang trong hồn sự phản kháng thường
    xuyên chỉ vì daisy thay tên
    một người con gái chỉ vì em
    đã kéo tôi trở lai một nơi

    uất nghẹn chán chường.


    ÂM THANH

    Xin người yên lặng tôi
    đâu cần lời ngợi ca
    từ những hình hài không
    tim xin người yên lặng
    giáo đường có tiếng cầu
    kinh ai ngợi ca ai –
    ai ngợi ca ai lũ
    người xuôi tay nhìn số
    phận.

    Gót chân vẫn không mòn
    hơn những đường tôi đi
    dù sỏi đá gót chân
    vẫn không mòn hơn
    thời gian dù chiếc kim
    đồng hồ quay tròn quay
    tròn.

    Chỉ một loài cỏ dại tôi
    nhìn tương lai lên những
    tinh cầu mới dựng và
    sương mù sương mù tôi
    say sưa hôn lên số phận
    cỏ non cỏ non rồi
    cỏ non.

    Xin người yên lặng có
    tiếng ai rên than gió
    về ru tắc nghẹn đêm
    đêm đếm cột đèn.

    Cánh tay này xin đưa
    cao những cột đèn in
    bóng lạnh mắt nâu rồi
    đi hoang tôi vẽ lên
    nền huyết sẫm ôi giọng
    buồn khỏa thân.

    Làm thơ chống chiến tranh trong bối cảnh đất nước ba bên bốn phía chuẩn bị bước vào cuộc gió tanh mưa máu trên qui mô lớn là một động thái vô duyên và lạc lõng.
    Tập Quê Nhà xuất bản đầu năm 1964 là dấu tích chết chóc đau thương hàng ngày của một hay hằng triệu con người ở nông thôn đã gần chục năm kể từ sau hiệp định Ge-nève. Khởi đầu là chiến tranh từ một phía. Tiếp đến, bạo lực cách mạng là cách duy nhất để giải phóng miền Nam… Cả một chuỗi dài máu lửa mà nông dân phải gánh chịu. Nhưng chiến tranh chưa thực sự gõ cửa từng nhà trong các đô thị như những năm tiếp liền sau đó.
    Năm 1965 Mỹ đổ quân. Một phần thế giới chữ nghĩa hân hoan đón chào. Nhiều phần khác thế giới chữ nghĩa bàng hoàng phẫn nộ.
    Bên cạnh nỗi đau chiến tranh, lớn dần lên nỗi nhục đất nước bị xâm lược, bị dày xéo, dân tộc bị nô lệ.
    Như lưỡi hái của tử thần, những nhát kéo kiểm duyệt đã băm nát “Giữa Lòng Việt Nam”, tập thơ thứ hai không xuất bản được như dự kiến trong năm 1965.
    Thi sĩ thôi làm thơ phản chiến, dấn thân vào con đường lạ lẫm chẳng đặng đừng.
    Bạo lực trong tay, nhưng lòng y cháy bỏng khát vọng yêu thương và hòa bình.
    … “Trong lòng cây súng tiểu liên
    Ta để dành viên đạn cuối
    Bắn vào tim ta – nơi trú ẩn của hận thù
    Bắn vào trí ta – nơi phát sinh mầm ung độc
    Rồi một sớm xuân hồng,
    Ta ca hát giữa bình minh
    Em
    Hãy đến cùng ta
    Sửa soạn lại đất đai cho tình ruột thịt’’.
    Bây giờ y là người ‘‘cựu chiến binh’’già.
    Quê Nhà là dấu tích của một thời bi thương chưa hết.
    Quê Nhà cũng là giấc mơ xanh biếc ngàn đời.


    Trầm Phục Khắc

    CHÂN TRỜI

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát họa

    Người đàn bà ngủ với vầng trăng
    và bắt đầu lẫn lộn không biết
    mình đang ở điểm nào trên đường
    chân trời con đường mờ ảo nối
    từ tuổi thanh xuân đến chiếc giường
    trong dưỡng viện người đàn bà đi
    ngược con đường và gặp lại tiếng
    hát một thời của mình ngân nga
    trong trận mưa hoa và những người
    đàn ông vẫn còn đang đứng đợi
    người đàn bà lặng lẽ cười bước
    đi về phía cánh cổng đồ sộ
    của một ngôi trường bà gặp lại
    lần cuối cùng cô nữ sinh nội
    trú trong căn phòng nhỏ cái phút
    đầu tiên cô bé biết thủ dâm
    và ngắm nghía thân xác trần truồng
    của mình trong chiếc gương cao mà
    quá hẹp người đàn bà vẫn lặng
    lẽ cười bước quay trở về với
    vầng trăng của khu dưỡng viện bà
    nhìn thấy bên cạnh chiếc giường của
    mình một người đàn ông có gương
    mặt trẻ thơ đang cầm hoa đứng
    đợi không thể nào nhầm lẫn được
    làm sao làm sao nhầm lẫn được
    nhưng người đàn bà đã thiếp đi
    theo vầng trăng những giọt mưa và
    nụ cười lặng lẽ có tiếng ai
    gọi ai bên ngoài và người đàn
    ông có gương mặt trẻ thơ trôi
    bập bềnh ra khỏi chiếc giường ra
    khỏi khu dưỡng viện ra khỏi giấc
    mơ ra khỏi cuộc đời ra khỏi
    căn phòng nội trú ra khỏi thân
    xác trần truồng của cô nữ sinh
    và ra khỏi thân xác trần truồng
    của chính chàng trên cùng một đường
    chân trời của mười lăm năm trước


    ANH EM

    Những bài thơ như những con chó
    trong đoàn quân khuyển bị bỏ rơi
    lại sau cuộc chiến. Có còn con
    nào lẩn quất đâu đây trong cánh

    đồng vô tận hay là chúng đã
    nhập vào trong những bài thơ nằm
    kề bên nắm xương của biết bao
    người lính.Có còn con nào quay

    trở về sống cuộc đời lặng lẽ
    nơi xó vườn của đám dân đen
    mỗi đêm hú lên bài thơ nhắc
    nhở một thời nhắc nhở cuộc đời

    về những con chó trong đoàn quân
    khuyển bị bỏ rơi lại sau cuộc
    chiến những con chó hoang như những
    bài thơ trên cánh đồng vô tận.

    Có còn viên đạn nào không dù
    chỉ là một viên thôi cho những
    con chó hoang cho những bài thơ
    can đảm ấy được sống thêm một

    lần bên những người anh em trong
    đoàn quân mà mỗi một chiến binh
    đã bắn xong viên đạn cuối cùng


    BÊN NHAU

    ở với thơ buồn
    quá đi với thơ
    vui hơn vì đi
    thì có lúc nhanh
    lúc chậm có lúc
    vắng lúc gần có
    lúc mơ lúc thật
    nghĩa là có đi
    thì có gặp chứ
    ở hẳn có sẵn
    rồi thì cần chi
    gặp nữa có vẻ
    lẩm cà lẩm cẩm
    tuy nhiên đi với
    thơ có chút rủi
    ro này ấy là
    ngộ nhỡ mai kia
    không đi được nữa
    thì biết tính sao
    thôi thì cứ đi
    vả chăng tuy rằng
    ngồi đấy nằm đấy
    mà vẫn bên nhau
    có nghĩa là đi
    chậm chạp chậm chạp
    bên nhau bên nhau
    lúc vắng lúc gần
    lúc mơ lúc thật


    Bạn đọc Khuyết Danh gửi đến trên Diễn đàn

    TƯƠNG LAI

    Bom vừa rơi tê đất khói giăng
    đầy trời xanh chiến tranh còn dư
    chấn anh lặng nhìn trời xanh từng
    thi thể bất động đồng đội đã
    nằm im gió rít qua hầm nhỏ

    Tiếng tim mình lặng thinh giữa phút
    giây trống trải một ký ức dần
    lên chiếc võng xưa khe khẽ đu
    đưa dưới mái hiên anh nằm nghe
    mẹ thở lưng còng bên mâm bàn

    Đôi tay mẹ nhồi thịt cho bữa
    chiều rộn ràng lửa hồng rơi từng
    đốm mồ hôi mẹ rơi theo gió
    thổi mùi thơm nhẹ bên bếp nghèo
    quạnh hiu anh nhìn lên trời vẫy

    Đám mây cũng vô tư không biết
    đời phía trước bao lần thành bão
    mưa giờ nơi đây chinh chiến máu
    vương trên áo sờn nhưng ký ức
    vẫn sống trong trái tim không mòn

    Chợt vang lên hiệu lệnh tiếng chỉ
    huy vọng xa anh đứng dậy thật
    chậm tựa như chưa rời nhà lặng
    lau dòng nước mắt anh bước giữa
    cỏ cây gói bình yên vào dạ

    Mang gửi về tương lai

    17/6/2025


    Vương Ngọc Minh

    NÀNG CÓ CÁCH CỦA NÀNG

    tôi nhặt cây viết lên
    nhìn vào trong ruột nó
    những sự kiện đã không
    còn đấy nhưng mặt khác
    dưới đường mực bắt đầu
    chảy xuống những từ ngữ
    chiếc iphone 5s
    đã chịu qua nhiều cuộc
    thử nghiệm bên trong ruột
    của nó các sự kiện
    vẫn đang tiếp tục diễn
    ra với một mức độ
    không lấy gì trầm trọng
    lắm tiếng gà còn i
    nơi thôn làng giữa thị
    thành thậm chí và nơi
    mặt đất tôi muốn nói
    tiếng gà thời gian dành
    cho các mái đầu thưa
    quí vị chiếc iphone
    5s chưa hề thay
    đổi tí ti ông cụ
    nào cả dù có nằm
    trên chuỗi chuỗi sự kiện
    đi chăng nữa trong ruột
    của đường mực chảy xuống
    những từ ngữ mặt khác
    đã chịu qua nhiều cuộc
    thử nghiệm vẫn i tiếng
    gà nơi thôn làng thậm
    chí giữa thị thành và
    các sự kiện ôi của
    ngày hôm qua vẫn còn
    nguyên với ngày hôm sau
    với thời gian đúng vậy
    tôi muốn nói thời gian
    trong ruột của thời gian
    nhiều sự kiện không còn
    đấy nhưng mặt khác các
    sự kiện khác sẽ tiếp
    diễn trong một không gian
    có trầm trọng lắm hay
    không hoàn toàn tùy thuộc
    vào tính cánh phi tuyến
    tính của nó nhá!



    Biển Bắc

    CHỨNG BỆNH CỦA NHỮNG THẦN HỎA-TINH

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát họa
    Với Lê Minh Phong, cùng bún bò giò heo sáng nào xứ Huế và thân tình

    Cây cột sống cột sống
    các chàng vào hành tinh
    xanh này chính là điểm
    các chàng đều tựa như
    Nhau là chứng đau lưng
    bởi vì cho dù chọn
    cách sống nào ở trên
    hành tinh xanh này đều
    Đau lưng cả len lỏi
    luồn cúi được thăng hoa
    nằm chăn ấm nệm êm
    nhưng đau lưng ngước mặt
    Thẳng lưng nghèo mạt nằm
    đất dĩ nhiên là đau
    lưng lừng khừng suy tư
    về chứng bệnh của cây
    Cột sống các chàng mang
    đến hành tinh xanh này
    trằn trọc không ngủ được
    thì cũng bị đau lưng!

    (cuối 5, không 13)

    LỤC BÁT NÁT

    Của Vương Ngọc Minh và thân tình

    “Còn đây câu lục bát buồn
    Đem ra xoa dịu dỗi hờn trong nhau
    Lời thơ rớt xuống chân cầu
    Cho mảnh trăng vỡ nát nhàu bến sông”

    (Câu Lục Bát Buồn; Biển Bắc; 1998)

    Thể bị càu nát là thể
    thơ tình N vẫn viết cho riêng M
    người N thương thầm lâu nay
    qua bao thăng trầm trơn tay với chữ
    nghĩa của ruột gan từ hơi
    thở trong N tuồn tuột lan tràn theo
    bước chân N với đôi giày
    Nai Kỳ mới toang hoang hoáng
    đuổi rượt bắt câu thơ tình thể lục
    bát là thể thơ bị cày nát N
    ưa viết cho riêng M hay
    thể thơ lạ nào khác N chưa viết
    cho riêng N và những ngày
    N chết lặng trong bấn loạn khi chữ
    nghĩa khốn nạn toang toáng nổi
    loạn gào thét từng cơn nhau cào cấu
    ruột gan đau điếng hồn thơ …

    (giữa 3, không 4)

    T / RỪNG NGƯỜI

    Cô còn nhớ lần đầu
    khi bước xuống đường đời
    đã hỏi cô như vậy trong
    buổi sáng nay khi cô
    Bước xuống đường trời lả
    hơi sương tình cảnh khi
    đó cũng y hệt bây
    giờ một rừng người từng
    Người như những làn cây
    ẩn hiện lờ mờ như
    số phận của từng người
    giữa rừng người mà dấu
    Vết lần đầu là những
    viên sỏi không nuôi sống
    được một thời còn lần
    sau là những mẩu vụn
    Bánh khiến lạc lối cả
    một đời rồi cô còn
    nhớ lần đầu khi bước
    xuống đường đời cô đã
    Hỏi số phận mong mỏi
    những điều gì ở nơi
    cô mà số phận chỉ
    vòng vo hỏi ngược lại
    Rằng cô mong mỏi những
    điều gì nơi số phận
    mình khi bước xuống đường
    đời lại hỏi cô như
    Vậy trong buổi sáng nay
    khi cô bước xuống đường
    đời bước vào rừng người
    bước đi với từng người

    (cuối 4, không 14)

    BÓNG MÂY

    Với Bùi Dzũ

    Nắng thì rất trưa mà
    giấc mưa lại quá chảnh
    chành chanh đá lăng quăng
    ống thủy tinh soi bóng
    Người ngồi người đi xe
    đứng im xe lướt phướt
    xoay vòng đều đặn theo
    tiếng leng keng đá lăng
    Quăng ống thủy tinh rồi
    mất hút hòa tan vào
    khối lỏng cùng với khói
    thuốc ba điếu thuốc ba
    Số năm loãng trong không
    theo mắt nhìn về mỗi
    hướng của mỗi người đang
    ngồi với nhau cùng đuổi
    Bắt suy nghĩ riêng của
    mình đang tan loãng vào
    dòng nhịp buổi rất trưa
    chờ giấc mưa hết chảnh
    Chành ra * bốn hướng tưới
    cho mát mắt đất chất
    ngất mũi người mùi thành
    phố bốc lên … bóng mây

    (đầu 8, không 13)
    *Từ-ngữ của Hồ-Xuân-Hương


    Hà Nguyên Du

    TÔI LÀ AI

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát họa

    Hôm qua có người hỏi
    tôi sống để làm gì
    tôi trả lời tôi sống
    chỉ để làm một việc
    Là đuổi cái tôi ra
    ngoài tôi người lại
    hỏi tôi là ai tôi
    trả lời tôi không biết
    Tôi là ai vì chỉ
    khi nào tôi đuổi được
    tôi ra ngoài tôi tôi
    mới biết tôi là ai …


    CHUYỆN XẢY RA

    Trên đời này cái gì cũng
    có thể xảy ra trong cái
    gì cũng có thể xảy ra
    có thể có cái không thể
    xảy ra thế mà lại xảy
    ra xảy ra một cách tự
    nhiên như qui luật phải xảy
    ra xảy ra một cách đột
    ngột xảy ra một cách choáng
    váng choáng váng đến điên đảo
    đảo điên như anh và em
    đang cơm lành canh ngọt thế
    mà lại xảy ra xảy ra
    chuyện em bỏ anh anh bỏ
    em một cách đành đoạn trên
    đời này cái gì cũng có
    thể xảy ra xảy ra không
    ngờ là chuyện có thể xảy
    ra vì em bỏ anh chỉ
    để được tự do đi chơi
    còn phần anh anh bỏ em
    là để sống với người tình
    trong mơ sinh ra thơ sinh
    ra nhiều con thơ nên thơ …

    đêm hăm bốn, mười một, mười lăm

    ÁM ẢNH

    Rồi cứ mãi ám ảnh
    về sự chắn lối của
    những cánh cửa những
    cánh cửa đã tháo tung
    hết những bản lề những
    cánh cửa không bản lề
    những bản lề gắn liền
    với những cánh cửa những
    cánh cửa bản lề những
    bản lề lắp ráp cánh
    cửa vào những căn nhà
    những căn nhà ở bên
    đây bên kia những con
    đường dĩ nhiên những cánh
    cửa chỉ đóng và chỉ
    mở chỉ đóng và chỉ
    mở những căn nhà

    Nov 25/15

    Hạnh Ngộ

    CÓ TIẾC KHÔNG?

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát họa

    Đã hết rồi mộng mơ thời mười
    bảy tuổi say cùng biển rộng núi
    cao đã hết rồi khát khao dây
    diều với bài thơ viết vội anh

    bận rộn em bận rộn với smart
    phone computer and message và
    vân vân … sinh nhật mật ngọt hay
    kỉ niệm ngày yêu nhau cũng là

    hoa qua đường bưu điện hoặc
    quà gửi từ tin nhắn nhắn tin mỏi
    mắt thấy mồ … nhưng mà nhưng
    mà em vẫn mặn nồng em có tiếc

    chút màu hồng thời cháy nồng nhớ
    nhung chưa dám cầm tay mắt
    rất tình môi chưa chạm môi em
    có tiếc không khi hôm nay không

    cần hương say đã biết tỏng tòng
    tong nhau những vòng đo những xo
    đo em có cái chi anh có cái gì thời
    số hóa hóa số tình không nói vòng

    vo em khó thời mời em lên
    đường em dễ thời mời em lên
    giường thật em có tiếc nhưng
    mà không tiếc nhưng mà không … biết.

    Sài gòn ngày 22/9/2014

    CỐ HỮU BỎ ĐÓI NỖI NHỚ

    Sáng
    bất ngờ đêm bất ngờ chiều
    xuống bỗng nhớ như điên một
    gã trai chưa biết tên tuổi

    chỉ biết thân hình với nụ
    cười mỉm chi khó hiểu khiêu
    khích khát khao đảo điên đàn
    bà mưa nắng thất thường ai

    chiều cho nổi đàn ông nếu
    bất ngờ hiểu điều đó trong
    khoảnh khắc là chiếm trọn trái
    tim nàng gạt đi nỗi nhớ

    đêm qua với người đàn ông
    xa lạ không chịu thừa nhận
    mình yêu mà chỉ là cảm
    xúc bất thường của người đàn

    bà cô đơn quá đỗi lạnh
    lùng bỏ đói nỗi nhớ triền miên
    không gọi cho người đàn
    ông để thừa nhận mình đang

    nhớ thừa nhận mình đang say
    tình ư chỉ sau một đêm
    mộng mị hay thật thì cũng
    qua rồi người đàn bà cố

    hữu bỏ đói nỗi nhớ bất
    chấp tim mình da diết trong
    đêm.


    VÔ ĐỀ

    Em dựng lên những bức
    tường rồi mong manh như
    màu xanh của biển ngày
    vắng anh những bức bối

    được dựng lên bằng gì …
    không rõ những bức tường
    được dựng lên bằng gì
    đâu sao giờ tan như

    bọt xà bông trong không
    gian có vang tiếng anh
    nơi căn phòng em ngồi
    đợi … em đã đợi mà

    không biết mình đợi biết
    mình thảnh thơi với mưa
    rơi trên cánh hoa mỏng
    manh xanh …



    Hồ Đăng Thanh Ngọc

    MỘT Ý NGHĨ

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát họa

    cô đơn là đặc trưng của phận
    người như ân huệ ngọt đắng của
    cuộc đời nhiều khi biết cô đơn
    là chính mình sao vẫn muốn thoát

    ra khỏi chính mình để mượn một
    cái gì đó ồn ào lấp nỗi
    trống rỗng hoặc nằm nghiêng bên trái
    để vay mượn giấc mơ cuộc thế

    cô đơn đã gào thét khi sinh
    ra và im lặng khi chết chóc
    và cả khi những giọt nước mắt
    rơi trong nỗi thống khổ nhưng không

    thể van xin một tình yêu từ
    đâu đó như cứ im lặng của
    đá núi bởi tình yêu không hề
    ban phát nó như một hơi thở

    lạ lẫm biển và núi cái nào
    cô đơn hơn cái nào?


    MƯA BIẾN SẮC

    vũ hội mưa đã bắt đầu với
    những trận sấm sét trên cao nổ
    tung cả bầu trời chớp dông chớp
    tây chớp nam chớp bắc chúng xẹt

    vào tâm can vào não trạng vào
    cơn ngái ngủ vào cơn say nguội
    vào cơn cơ hội nhờ mưa rửa
    tội vào hèn nhát mưu sinh vào

    bức bối vào đủ thứ bụi bặm
    vũ hội mưa đã bắt đầu lau
    rửa những bộ mặt những gương mặt
    biến sắc lá xanh hơn mặt đường

    sạch sẽ hơn lòng người thơ thới
    hay rối bời hơn thì mưa vẫn
    cứ rơi cứ rửa cứ lau đi
    lau lại có người ra hân hoan

    tắm mưa có người đi sợ mưa
    ướt có người núp trong nhà nhìn
    ra mưa to quá con chó cũng
    nằm yên tội nghiệp mặc kệ con

    mèo kêu meo meo cầu vồng vẽ
    nên bảy màu sau mưa? mưa nhiễu
    sự hay mưa vô sự? có người
    ngồi trong nhà thò một chân ra

    ngoài xem chân mình có biến sắc
    hay không


    HOA HỒNG

    con đường về nhà em hoa hồng
    dại nở đầy trong tím lịm hoàng hôn
    em đã đi về trong sương đêm
    nên không nhìn thấy và nhiều khi

    đêm quá dài hoa hồng không còn
    tươi khi ngày mai nắng lên không
    rực rỡ sân nhà em và những
    cánh hoa hồng héo úa trong màu

    xanh của cỏ gió đã thổi tung
    những cánh hoa rơi lả tả trong
    đốm sáng như những giọt máu chảy
    từ đỉnh trời lòng chợt buồn khi

    hoàng hôn lại đi qua ngõ nhà
    em và lại thấy những đóa hồng
    dại vẫn gai góc nở trong bóng
    tối nở làm gì tội rứa hoa ơi!


    Hoàng Huy Hùng

    CÁNH CỬA CON ĐƯỜNG

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát họa

    Những cánh cửa bình minh
    mở … trong đêm sâu những
    cánh cửa cánh cửa cánh
    cửa vui vẻ những buồn
    bã buồn bã buồn bã
    đóng … trong lòng tôi … những
    con đường dẫn đến cánh
    cửa những cánh cửa dẫn
    đến thiên đàng những thiên
    đàng địa ngục địa ngục
    thiên đàng những con đường
    dẫn đến con đường những
    vực sâu dẫn đến vực
    sâu những bình minh hoàng
    hôn những thần linh quỷ
    ma … thôi thì đấy cánh
    cửa cứ là cánh cửa
    và con đường cứ là
    con đường đóng và mở …
    trong bóng tối …


    CHUYỆN TÌNH

    Trong cái rét buốt của một đêm
    mùa Đông trong vẻ còn ngập ngừng
    người con gái nói lời nhắn lời

    chào P như thể đó là lần
    cuối cùng gặp lại nhau đêm nay
    P biết rằng P sẽ mãi mãi

    xa người yêu của P đã là
    một người khác hoàn toàn lạ lẫm
    P không thể níu kéo dài cuộc

    tình đến đây là hết chớp mắt
    mở ra ngồi nhìn lại P đang
    ở đây từ lúc nào (đã cách

    xa 15 năm rồi) P đã
    ở một vùng không gian khác một
    thời gian khác tình yêu đã chết

    rồi hay lẽ nào đó chỉ là
    một giấc mơ giấc mơ mãi ám
    ảnh tình yêu đã tàn rồi như

    điếu thuốc tàn cuối cùng sót lại
    trong vỏ bao thuốc gạt tàn đầy
    gạt tàn đầy tro tàn cùng đầu

    mẩu những điếu thuốc nằm chết một
    giấc mơ có được giải cứu làm
    sao để giải cứu nỗi ám ảnh

    khắc khoải chưa được nói ra hết
    cùng người yêu P chỉ là một
    người dối trá hay lẽ nào chỉ

    là ảo ảnh là ảo tưởng ngây
    thơ một thời xa vắng rồi nhưng
    vẫn cứ dai dẳng âm ỉ hiện

    tại này chuyện đời P dai dẳng
    lần lượt là những điếu thuốc cháy
    rồi lại tàn cháy rồi lại tàn

    gạt tàn đầy gạt tàn đầy những
    tro tàn những đầu mẩu điếu thuốc
    dấu vết này sẽ bị đổ đi

    bị vứt đi tình yêu đã chết
    hay chỉ là một giấc mơ?

    25/12/2014

    MỘT GÓC TRỜI

    Nơi con đường có lá
    vàng tôi tạo ra con
    đường của tôi bằng cách
    xóa đi những dấu vết
    một vùng trời bình yên
    trở lại – trở lại nơi
    ngõ phố nơi này – đây
    Hà Nội – Hà Nội nơi
    con hẻm chiều muộn người
    đi kẻ về trở về
    căn gác nhỏ riêng một
    góc trời ấp ủ một
    ước mơ sẽ thành sự
    thật có tôi cùng em
    bên nhau kể chuyện ngàn
    lẻ một đêm bay lên
    bài ca kỷ niệm bài
    ca hóa thành một thời
    huyền thoại một thời tươi
    đẹp từ miền đất có
    dòng sông thăm thẳm kể
    chuyện ngàn năm.


    Hường Thanh

    DI VẾT

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát họa

    lúc đầu việc bước vào
    ngôi nhà với mái hiên
    đã rất nhiều bụi nhiều
    thời gian qua với hàng

    cây em đứng ngày mùa
    hè oi ả khi bước
    vào ngôi nhà đã rêu
    nhiều chỗ nhiều rêu khô

    lớp từng lớp trên nền
    tường người bỏ hoang đã
    lâu rồi lâu với hàng
    cây em đứng ngày mùa

    hè chói chang chói chang
    nắng trên mái hiên nhiều
    chỗ nhiều chiếc lá không
    từ mùa thu lại đổ

    xuống hàng cây trước ngôi
    nhà lúc đầu chẳng có
    gì để tồn tại ngoài …


    CÔ GÁI BÊN CHIẾC CỬA KẾ TIẾP

    nắng đi vào nắng
    tỏa ra nắng tắt
    ban trưa mở ra
    chiếc cửa chẳng biết
    lúc nào ngày chưa
    đọc được ý nghĩ
    cô gái cũng không
    đọc được chiếc cửa
    mà phải lần lượt
    mở ra từng cánh
    cửa này lần lượt
    mở ra những ý
    nghĩ kia cuộc đời
    ngắn như gian phòng
    nhỏ lần lượt những
    cuộc đời trong cánh
    cửa cô gái mở
    những ý nghĩ không
    đọc được lần lượt
    mở ra lại gặp
    tên thủ lãnh với
    màu đen quấn đầu
    đứng đôi mắt khô
    lần lượt mở mở
    từng chiếc cửa cô
    gái thân thể lõa
    lồ khi nắng đã
    đi vào ban trưa
    nắng tắt rồi tắt
    nắng lần lượt sự
    mở ra lần khác
    cô gái vẫn cố
    mở ra hy vọng
    mình.

    21.5.2015

    HAI NGƯỜI GẶP NHAU

    ở một nơi nào đó những
    trừu tượng đôi lúc ra khỏi
    ý tự nó trừu tượng một
    cách riêng ngoài rìa cặp mắt

    tôi về chiếc nón lá mà
    tới hai chiếc nón lá ở
    ngoài rìa vỉa hè khung hình
    trong đó là món đồ ve

    chai hai phía đến nhau chiếc
    nón lá gặp nhau ngoài rìa
    cặp mắt ngoài rìa vỉa hè
    hai chiếc nón lá trên đường

    nói về sự sống trong mọi
    sự sống tầm thường những món
    đồ ve chai trừu tượng nó
    đã nằm ngoài rìa tôi ngoài

    rìa cặp mắt ngoài rìa chỗ
    tôi ngồi những món đồ ve
    chai chết hai chiếc nón lá
    gặp nhau như còn sống tôi

    không có gì cả nhấp ly
    cà phê uống buổi sáng một
    ngày tự nhiên hiếm hoi mình
    thấy ngoài rìa quán cafe.

    19.1.2015

    Khế Iêm

    HỎI CÂY

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát họa

    Tôi hỏi cây cây nghĩ
    gì khi người ta chặt
    khúc những bạn cây bỏ
    lăn lóc trên lề đường

    cây bảo cây đang hỏi
    mây trắng nhưng mây trắng
    bận bay nên chưa thể
    trả lời tôi hỏi nếu

    người ta chặt khúc cây
    thì cây sẽ làm gì
    cây bảo cây đang hỏi
    bóng mát nhưng bóng mát

    bận che khuất mặt trời
    nên cũng chưa thể trả
    lời tôi nói vậy cây
    hãy chạy đi chạy nhanh

    đi tới một nơi nào
    không có bọn chặt cây
    cây bảo cây đang hỏi
    rễ nhưng rễ bận cắm

    dưới lòng đất sâu chưa
    lên được tôi tức quá
    hét lên vậy cây hãy
    đợi đó để chết đi

    chết theo các bạn cây
    của cây đi cây bảo
    cây đang bận tiếp gió
    gió đã tới rồi có

    câu hỏi gì thêm cứ
    dán dưới gốc cây sẽ
    trả lời sớm khi nào
    xong việc.


    HỎI NẮNG

    Nơi góc đường một đám
    đông rất nhiều người nhiều
    người và cờ dọc theo
    lề rải rác những bóng
    người di chuyển về phía
    đám đông làm cho đám
    đông thêm đông nơi một
    góc đường khác người đàn
    ông đi ngược lại phía
    đám đông trên con đường
    ngoài hai luồng xe nghịch
    chiều càng lúc càng vắng
    xuyên suốt chỉ tòan là
    nắng và nắng cho đến
    lúc hoa mắt tấp vào
    một tàn cây hỏi nắng
    về đám đông rất nhiều
    người nhiều người và cờ
    kia có còn hay đã
    biến thành nắng và nắng
    này người đàn ông đang
    nấp dưới tàn cây thì
    đến bao giờ cũng sẽ
    biến thành nắng?


    KẺ VIẾT

    Những kẻ viết – như tôi –
    sống với những nhân vật
    của họ mà nhân vật
    của họ thì vốn dĩ

    là những mẫu người thật
    đủ mọi dạng hình được
    bỏ vào những tình huống
    do họ tạo ra theo

    kiểu cách của họ những
    nhân vật của họ trở
    thành những con rối dần
    dần những con rối lại

    biến chính kẻ viết thành
    những con rối con rối
    trong những con rối ô
    hay thế giới của những

    con rối cứ thế và
    cứ thế phiêu bạt phiêu
    bạt những con rối chữ
    nghĩa lộn xộn với những

    con rối cuộc đời và
    trong cái mớ bong bong
    của hoài nghi kẻ viết
    đi đâu về đâu cuối

    cùng rồi cũng chỉ là
    kẻ viết có khác gì
    những con người khác luẩn
    quẩn trong những thế giới

    khác nhiễu nhương và nhiễu
    nhương nhưng nhiễu nhương thì
    nhiễu nhương những kẻ viết –
    như tôi – làm sao có

    thể thóat ra khỏi cái
    viết và chỉ có thể
    mãi mãi là kẻ viết
    vất vưởng trong cái viết.


    Lê Hưng Tiến

    CÁI TÔI CÓ THỂ

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát họa

    mở những khát vọng ra từ cánh
    cửa đập tan bờ sóng nên trái
    tim không thể hú hớ nổi ngọn
    gió thơ trên đồi hoang vu. Mênh

    mông vỡ vụn rồi tự mất dần
    bóng tối lung linh khi giấc khuya
    vụt dậy tung hứng hàng hàng câu
    trả lời vì sao và vì sao

    trái tim không thể hú hớ nổi
    ngọn gió thơ trên đồi hoang vu
    khát vọng vẫn cô độc bởi dấu
    chấm hỏi còn kìm kẹp phía sau mặt

    trời đỏ lệ đang còn ẩn ngữ
    những hoài niệm thông hành mà thế
    giới con người luôn thức nhận chuỗi
    chuỗi linh động linh động. Có thể

    cái tôi cao trào nhưng bật khát
    vọng ra thì cái tôi đã quá
    vãng và chưa đủ cái tôi khát
    vọng nên cái tôi không thể hú

    hớ nổi ngọn gió thơ trên đồi
    hoang vu hoang vu. Hoang và vu …


    Phạm Quyên Chi

    CHA

    người đàn ông đến trước cửa
    báo tin rằng: mùa đông này
    nhớ mặc ấm và cha các
    cháu chưa trở về rồi như
    lời nói ấy nghiêng về góc
    tường có bao giờ đâu nhỉ

    chúng tôi chưa bao giờ nghĩ
    rằng cha có một ý định
    hiện hữu nào đến việc cho
    ai đó biết trước hay biết
    thêm bất cứ điều gì và
    thế là câu nói không lâu

    lắm thời gian của người lạ
    kia đủ để hình dung đã
    có một thời cha không trở
    về nhà liệu sức lực và
    ý chí ẩn náu nơi xa
    xa có mang cha tới sự

    hoang đường khi thuở xưa có
    một lần cha nói âm vang
    đến bây giờ: rừng sâu thật
    là nơi tăm tối những tia
    nắng chiếu xuống cùng khó khăn
    đi xuống và cha ơi con

    đường để thoát khỏi sự âm
    u chắc chắn phải tìm được
    chút ánh sáng lờ mờ và
    phải gặp được người quen và
    cũng phải chắc chắn rằng họ
    dũng cảm hơn là ngồi đó

    rồi nghĩ ngợi rõ ràng cha
    ơi một chút hèn nhát trên
    một tiếng ào ào từ cơn
    gió phía xa người bạn của
    cha ông ấy đã đi trong
    nỗi bất hạnh rõ hình dung

    ấy trong đôi mắt trẻ thơ
    em gái đã thầm nghĩ hãy
    đi đến rừng núi một lần
    nữa xuyên sâu vào dãy núi
    đá: tin đi cha bị mắc
    kẹt và xuyên qua từng kẽ

    lá sẽ tìm thấy cha mình
    bởi vì rừng cũng có chỗ
    kết thúc, mọi cái trên đời
    đều có chỗ kết thúc, phải
    không nào cha ! Ta đi đi
    nào…


    Bùi Chát thơ và tranh

    TÔI THẤY TRÁI ĐẤT

    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát họa

    Ngày càng lún sâu
    Ngày càng bị chìm xuống
    Mọi thứ chúng ta thải ra, liệng vào
    Chất chồng và lấp dần trái đất

    Một hôm tôi mơ
    Thấy trái đất đang vùng vẫy
    Trong một nấm mồ rác (1)

    (1) Thật ra giấc mơ của tôi, chính xác là:
    Trái đất đang bị chôn sống
    trong một nấm mồ nhựa



    GỬI ANH NGUYỄN TIẾN VĂN

    Bạn tôi chỉ mới bắt đầu chết
    Hôm nay
    Cuối ngày lễ phục sinh

    Sẽ là một hành trình dài
    Nhưng có lẽ không quá vất vả
    Cho tất cả những ai yêu quý cuộc đời
    Quay trở lại

    20/04/2025
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! - Bùi Chát
    Tập thơ Chúng ta đang trôi đi đâu?! – Bùi Chát

    Hậu hiện đại – sự đứt gãy của “ý nghĩa”

    Những câu thơ không cần cứu ai, chỉ cứu người viết
    Những câu thơ không cần cứu ai, chỉ cứu người viết
    Nguyễn Tiến Thanh

    Có một thời người ta tin vào thơ như người ta tin vào Thượng đế. Tin rằng thơ mang theo những tầng sâu của linh hồn, là cái đẹp thuần túy vượt khỏi mọi bạo lực của thời đại. Tin rằng thơ là tiếng nói cuối cùng, là kẻ giữ hộ tinh thần con người khi thế giới này chỉ còn lại sự trơ lì.

    Nhưng hậu hiện đại đến, không để phủ nhận thơ, mà để đặt một dấu hỏi khắc nghiệt hơn:

    “Nếu không còn linh hồn, không còn bản thể, thì thơ còn nói thay ai?”

    Hậu hiện đại đã khai tử đại tự sự. Không còn thi sĩ như sứ giả của chân lý, không còn thi ca là vết cắt thiêng liêng giữa người và muôn vật.

    Mỗi tuyên bố đều bị nghi ngờ như một vết tích của quyền lực

    – điều mà Lyotard từng đoan quyết.

    Hậu hiện đại không đọc thơ – nó giải cấu trúc thơ, để chỉ ra rằng mọi ý nghĩa mà ta tưởng là trung tâm đều là một chơi trò dời chỗ không ngừng của dấu hiệu. Câu thơ không chỉ mơ hồ – nó tự rút lui khỏi nghĩa, để phơi ra bản chất không-nơi-trú của ngôn ngữ. Thơ không còn là chỗ trú của linh hồn. Thơ là căn nhà hoang của những ẩn dụ bị đẩy đến tận cùng của tan rã.

    Thơ không còn là tiếng nói, chỉ là tiếng vọng. Nó từng được viết bởi những cái tôi rõ nét: Truyện Kiều là Nguyễn Du, Thần khúc là Dante , Bên kia sông Đuống là Hoàng Cầm. Nhưng hậu hiện đại đặt lại toàn bộ: Không còn “tôi”. Chỉ còn một trung tính không xác định phát ra tiếng gào của các mảnh vỡ. Roland Barthes gọi đó là “cái chết của tác giả”. Tác giả không còn là người kiến tạo nghĩa – chỉ là một vị trí tạm thời trong mạng lưới những dấu hiệu. Baudrillard còn tàn nhẫn hơn, nhìn thơ như một biểu tượng rỗng: nơi cái thực được thay thế bằng cái siêu thực, nơi cảm xúc bị mô phỏng lại để bán đi như những khoảnh khắc chân thực.

    Thơ hôm nay, trong hậu hiện đại, không còn viết về cái tôi – mà là cái tôi bị vỡ ra và phản chiếu trong gương vạn mảnh. Mỗi bài thơ là một tiếng vọng, không biết vọng từ đâu, không biết vọng về đâu. Có khi ta viết một bài thơ chỉ để nghe lại giọng của chính mình – nhưng không chắc đó còn là mình. Có khi ta làm thơ như thử gõ lên một bức tường không có hồi âm – để biết: có thể chính thơ cũng đã rỗng.

    Với hậu hiện đại, thơ trở thành một diễn ngôn không còn chủ thể – và cực đoan hơn- nó cho rằng diễn ngôn không còn phục tùng chân lý mà phục tùng quyền lực. Trong ánh nhìn ấy, thơ không chỉ là một hình thức nghệ thuật, mà là một diễn ngôn bị kiểm soát, định dạng, và cài mã hóa bởi các thiết chế – từ truyền thông, xuất bản đến thị trường thẩm mỹ.

    Một phần thơ Việt hiện nay – hậu hiện đại hay tân hình thức- xét cho cùng, cũng là một sản phẩm của cơ chế diễn ngôn ấy. Ở đâu đó, nó chọn cách nổi loạn bằng hình thức, nhưng chưa chắc đã thoát ra khỏi quy luật của việc “thị trường hóa cảm xúc”.

    Có thể người ta không viết thơ vì muốn nói, mà vì muốn được thấy là mình đang nói. Có thể thơ không còn được viết để đi tìm ý nghĩa, mà để mua một vị trí giữa các từ khoá hashtag. Nếu vậy, thơ hậu hiện đại là một vết rạn được phơi ra giữa các khối kiến trúc quyền lực. Nó không còn là ngôn ngữ của vĩnh cửu. Nó là một thực hành bất ổn – vừa chống lại diễn ngôn, vừa là sản phẩm của chính nó.

    Vậy có còn cái đẹp sau khi bản thể tan rã không? Nếu không còn bản thể, không còn chân lý, không còn cái tôi – thì cái đẹp trong thơ hôm nay là gì? Không còn là xúc cảm cao cả. Không còn là chân – thiện – mỹ. Cái đẹp trở thành một vết nứt được nâng niu. Một khoảnh khắc đứt gãy được giữ lại như dấu hiệu rằng ta vẫn đang sống.

    Ta không còn làm thơ để kêu gọi – mà để nhớ rằng có lần mình từng nói. Ta không còn làm thơ để cứu ai – mà để ghi lại rằng ta đã không thể cứu mình. Và có thể, trong sự bất lực đó, thơ tìm thấy một phẩm giá khác: phẩm giá của cái chưa từng trọn vẹn.

    Trong cõi thơ không còn nền móng, thơ hậu hiện đại không xây dựng một thế giới. Nó ngồi giữa đống hoang tàn, và làm một động tác rất người: rút trong tro tàn ấy một câu thơ không ai hiểu – nhưng cũng không ai dám lãng quên.

    Trong việc thực hành thơ của các tác giả Việt, trong phạm vi đọc của cá nhân, tôi thấy có mấy xu hướng. Ở nhiều tập thơ của các tác giả thế hệ 7x,8x, Derrida vang lên: mọi dấu hiệu về cái tôi trong thơ đều bị trượt, không định vị được, không khép kín. “Tôi” là một cấu trúc bị hủy thiêng. Nhà thơ không còn “viết về mình”, mà viết như một cách làm tiêu biến bản thể. Cái tôi trong thơ luôn đứng trên ranh giới: nửa vật thể – nửa ý niệm, nửa hiện hình – nửa siêu hình. Thơ giải cấu trúc bản thể, bào mòn ranh giới của ý nghĩa, và thường để lại một khoảng trắng giữa những từ – khoảng trắng ấy không phải im lặng, mà là vết cắt của ý thức. Ở những nhà thơ này, thơ không xác định một điểm tựa. Cái tôi biến mất trong hành trình đi vào vùng trắng của ngôn ngữ. Đây là thơ của một bản thể đang tan rã, không cố níu giữ gì, chỉ khắc lại những vết trượt của linh hồn.

    Nếu Foucault còn sống và biết tiếng Việt, ông sẽ thích thú trước thực hành thơ của một nhóm thơ hậu hiện đại khá nổi tiếng ở Việt Nam. Họ không làm thơ như một trò chơi chữ. Họ dùng thơ như một gói chất nổ nhỏ gài vào cấu trúc diễn ngôn chính thống: từ mỹ học đến đạo đức, từ chính trị đến văn hóa tiêu dùng. Mỗi bài thơ đều như một cú phỉ nhổ lên tính thiêng liêng, và trong hành vi đó, thơ tự vạch mặt chính mình như một sản phẩm cũng bị chi phối bởi quyền lực và hình thức.

    Các tác giả này chính là biểu hiện của hậu hiện đại ở chỗ: tẩy xóa “cái đẹp truyền thống”. Tẩy xóa “cái tôi tinh thần”. Phơi bày thơ như một diễn ngôn bị kiểm duyệt, bị thương mại hóa, hoặc bị thần thánh hóa sai chỗ. Không còn sự thanh cao,

    không còn tính nhạc, không còn mộng mị. Họ viết thơ như một hành vi chống lại chính cái khung mà thơ từng bị đóng vào. Thơ họ dơ bẩn như cái bô của người già, nhưng đó là sự thật duy nhất họ không muốn lau đi. Foucault có thể sẽ vỗ tay:

    “Diễn ngôn được dựng ra để cai trị – còn thơ như thế là đang phá hoại quyền lực.”

    Tôi đặc biệt muốn nhắc đến một nhà thơ nữ định cư ở nước ngoài. Thơ chị không hẳn là giải cấu trúc. Chị khai thác triệt để cơ thể và dục tính như những hình ảnh bị phơi bày, lặp lại, tiêu thụ. Nhưng bên dưới vẻ đẹp lạnh lùng ấy là một mô hình Baudrillard hoàn hảo: Thơ mô phỏng khoái cảm. Khoái cảm mô phỏng tự do. Tự do mô phỏng bản thể.

    Trong thế giới ấy, thơ không còn là phản ánh – mà là một sự mô phỏng sự mô phỏng. Nữ thi sĩ viết thơ bằng lưỡi, không để nói mà để làm đứt gãy thói quen hiểu. Thơ không còn là nơi chứa đựng kinh nghiệm sống – mà trở thành trình diễn của chính sự hoài nghi: Kinh nghiệm nào là thật? Cảm xúc nào không bị thao túng bởi thị hiếu? Ngôn ngữ nào không bị rút ruột?

    “Nàng trút cởi bí mật úp trên vách đá và trầm mình vào im lặng tìm an toàn
    mật mã chiếc chìa khóa mở cửa một nỗi đau kinh hoàng
    căn nhà của một người đàn ông và ba người đàn bà
    tràn ngập âm thanh và mùi hương phản cảm
    tiếng động tình của cô gái, tiếng khóc của nữ chủ nhân, tiếng thở dài thất vọng của nàng ”.

    Đó là một buổi trình diễn của những mô phỏng: Giới tính được mã hóa. Khoái cảm bị lặp đi lặp lại. Ngôn ngữ bị bôi trơn để trở thành một hình ảnh dễ lan truyền. Đây là Baudrillard – ở tầng sâu nhất: không còn ranh giới giữa thật và giả – chỉ còn các phiên bản của phiên bản.

    Cũng không thể không nhắc đến một nhà thơ nổi tiếng, có thể coi là nổi tiếng nhất của những người nỗ lực khai phá một con đường mới trong thơ Việt sau 1975 . Ông không hậu hiện đại theo kiểu nhóm thơ hay tác giả nữ nói trên. Nhưng chính sự bám víu vào huyền thoại cá nhân, vào bóng tối, vào ký ức không thể phục dựng, lại làm nổi bật một điều: Thơ ông là nỗ lực níu giữ đại tự sự – nhưng trong một thế giới đã không còn nền tảng cho nó.

    “Ta không thể nuôi nhau bằng những ánh sao trời
    Anh nói vậy xin em đừng khóc
    Những ngọn tóc em đang đổ xuống ngực anh
    Như những rễ cây bò buồn trong sỏi đá”.

    Ta có thể thấy ở đó một tàn dư của chủ nghĩa tượng trưng, nhưng không còn thiêng. Giấc mơ, ánh sao trời, đồng quê, cơ thể – tất cả đều biến thành dấu hiệu không còn gắn với trải nghiệm gốc. Lyotard đã nói: đại tự sự không chết hẳn – nó tồn tại như bóng ma không còn linh hồn. Thơ ông vì thế gợi cảm – và u uất – vì nó không chịu tan trong hậu hiện đại, nhưng bị hậu hiện đại bao vây đến mức mất phương hướng.

    Khác với những hình thức trình diễn thơ trẻ hôm nay, thơ của một vài tác giả đương đại khác lại mang dáng vẻ truy nguyên: đi vào bản thể đang mục ruỗng, nhưng không để khôi phục nó – mà để giữ một chút phẩm giá cuối cùng còn lại từ đống hoang tàn. Họ làm thơ như chép lại những câu nói cuối cùng của một người sẽ bị quên mất. Không để ai nhớ. Chỉ để chính mình khỏi tan đi.

    Thơ họ lặng lẽ, không kêu gào. Nhưng bên trong nó là một dòng kháng cự thầm lặng. Đây không còn là thơ để “nói điều gì đó” mà là để không rơi hoàn toàn vào câm lặng. Một hành vi của tự vệ bản thể giữa cơn bão tri thức và tiêu dùng.

    Có thể thơ Việt hôm nay không còn là nơi cư trú của ý nghĩa.Nhưng nó vẫn là một vùng đứt gãy cần được giữ lại. Một bản thể chưa hoàn tất, nhưng biết mình đang rạn vỡ. Một tiếng gọi không ai đáp – nhưng vẫn vang lên như thanh âm kháng cự cuối cùng của cái đẹp không ai đón nhận.

    Vì sau tất cả những Derrida, Baudrillard, Foucault và Lyotard, vẫn còn một điều mà thơ – dẫu hậu hiện đại đến đâu – vẫn không thể thôi cưu mang: Niềm tin mong manh rằng, vẫn có người lặng lẽ lắng nghe. Dù không hiểu. Dù không tin. Nhưng lắng nghe. Không có thơ cứu thế. Không có kẻ làm thơ thay ai. Chỉ có người – đứng giữa tàn tro của chính mình – cố giữ một mảnh chữ chưa cháy hết.

    Thơ từng được xem như một căn phòng trú ẩn cuối cùng. Khi lịch sử lầm than, thơ cưu mang ý thức phản kháng. Khi thân thể bị hủy hoại, thơ giữ lại hình ảnh con người. Khi lý trí cạn kiệt, thơ khơi dậy điều chưa từng gọi tên.

    Nó từng là nơi mà “tôi” tìm thấy chính mình. Nhưng trong bối cảnh hậu hiện đại – nơi mọi nền tảng của chân lý, đạo lý, niềm tin và bản thể đều bị giải thiêng – thơ liệu còn giữ được vai trò đó?

    Hay thơ hôm nay, chỉ còn là vết trượt của ngôn ngữ, vết nứt của bản thể, một tiếng vọng không ai gọi, giữa một thế giới vốn không cần ai phải trả lời?

    Không có một định nghĩa duy nhất cho “hậu hiện đại”. Lyotard chỉ gọi nó bằng một dấu hiệu: “sự hoài nghi đối với mọi đại tự sự.” Derrida không định nghĩa – ông giải cấu trúc. Baudrillard không tranh luận – ông dựng nên một thế giới mô phỏng, nơi hình ảnh giết chết thực tại. Foucault không nói về cái đẹp – ông truy lùng quyền lực ẩn trong mọi diễn ngôn. Trong thế giới ấy – thơ cũng không còn là một thực thể thiêng liêng đứng ngoài.

    Thơ trở thành vật thể bị nghi vấn: Ai là chủ thể của câu thơ? Có tồn tại bản thể đứng sau ngôn ngữ? Cái tôi thơ ca là ai: người viết, người đọc, hay người được tưởng tượng ra để hoàn tất nghĩa? Thơ không còn đi tìm ý nghĩa – mà bày ra sự đứt gãy của ý nghĩa. Hãy thử đọc một bài thơ hậu hiện đại – bạn sẽ thấy: Không có trung tâm. Không có tuyến tính. Không có kết luận. Không ai chịu trách nhiệm cho câu thơ ấy.

    Thơ hôm nay, nếu đi đúng tinh thần ấy, không còn nói lên điều gì đó – mà phơi bày khả năng bất khả của việc nói.Viết thơ – là thừa nhận rằng tôi không thể diễn đạt. Nhưng vẫn viết – vì nếu không, cái không thể ấy sẽ không bao giờ thành hình.

    Trong hậu hiện đại, Thơ không còn là tiếng nói – chỉ còn là tiếng vọng. Không còn ai tin rằng thơ là tiếng nói của Chân – Thiện – Mỹ. Thơ hậu hiện đại không còn phát ngôn từ một cái tôi toàn vẹn. Nó nói bằng những vết nứt, những mảnh vụn, những vết cào của một bản thể chưa từng được hình thành. Barthes tuyên bố “cái chết của tác giả”. Nhưng trong thơ, ta có thể cảm thấy rõ hơn: “cái chết của bản thể”. Và rồi, thơ hôm nay có thể không cần người tin. Nhưng vẫn cần người đọc để lắng nghe cái không thể đọc nổi.

    Không để hiểu. Không để phán xét. Mà để biết rằng có một nỗ lực chưa từng buông xuôi – giữa thế giới của mô phỏng, của quyền lực, của giải cấu trúc. Một câu thơ hôm nay – có thể không giữ lại ý nghĩa. Nhưng có thể giữ lại một vết chạm, dù rất mong manh, của người từng muốn nói điều gì đó – Trước khi mất hẳn khả năng nói.

    Tôi vẫn yêu cái đẹp, theo cách cổ điển. Yêu một câu thơ còn vần, một ý nghĩ còn giữ nhịp thở của linh hồn. Vì vậy, tôi biết mình không thể sống hẳn trong thế giới hậu hiện đại – nơi mọi cấu trúc bị tháo rời, mọi ý nghĩa bị nghi ngờ, và vẻ đẹp trở thành trò chơi ngôn ngữ. Tôi đứng bên ngoài, nhưng không rời mắt. Tôi quan sát. Những con người sống trong đó – và cả thơ ca được sinh ra từ trong chính sự tan rã đó. Không phải để phê phán. Cũng không phải để tuyên xưng một niềm tin cũ. Chỉ là để hiểu. Để nhận ra mình đang ở đâu, khi những điều từng thiêng liêng giờ đã trở nên khả nghi.

    Nguyễn Huy Thiệp từng đặt ra một câu hỏi, như một cái bẫy đã nguội dần:

    “Đương đại – tức là suy đồi?”

    Câu hỏi ấy, thoạt nhìn là sự do dự mang tính phản biện, nhưng kỳ thực – là một xác tín buốt lạnh: rằng trong cái gọi là “đương đại”, ông thấy nhiều hơn một sự tha hóa. Không phải chỉ đạo đức suy đồi, mà cả thẩm mỹ, cảm xúc, trí tuệ – tất cả đang trượt dần khỏi khả thể của cái gọi là “đẹp”. Nhưng tôi thì nghĩ khác. Dẫu không phủ nhận nỗi hoài nghi của ông là một nhắc nhở quan trọng, tôi vẫn tin: cái đẹp – nếu còn – sẽ không nằm trong một hình thức cố định nào, mà trong chính khả năng nó tự hoại, tự tra vấn, tự hồi sinh.

    Vì thế, tôi cần đưa ra cảm nhận.

    Và để điều đó không là một sự mơ hồ, tôi buộc phải nghĩ đến các ví dụ, những bài thơ, những khuynh hướng, những tiếng nói đã xuất hiện quanh mình. Nhưng bản tiểu luận này không phải là một tập phê bình. Nó càng không phải là một khảo sát học thuật về thơ, cũng không nhằm tổng kết hay hệ thống hóa bất kỳ lý luận nào. Vì thế, tôi không dẫn tên ai cụ thể.

    Tôi chỉ muốn giữ lại một nhịp thở cho điều tôi tin: rằng ngay cả trong thế giới hậu hiện đại, nơi mọi giá trị đều bị lật ngược và tan rã, thì vẫn có một thứ – nếu còn – sẽ không để con người chết hẳn: một câu thơ viết ra khi không còn gì để bám víu, nhưng vẫn còn điều gì đó muốn được nói ra như thể linh hồn vẫn còn thở.

    Câu hỏi sau cuối: Còn có thể làm thơ không, sau hậu hiện đại? Câu trả lời là: không thể – nếu bạn tin vào thơ như đã từng. Nhưng: Hoàn toàn có thể – nếu bạn tin rằng chính điều bất khả ấy mới là điều duy nhất còn lại để làm.

    Thơ hôm nay không còn là công cụ diễn đạt, mà là bằng chứng cho thấy việc diễn đạt đã thất bại. Một chứng tích, một vết rạn, một tiếng động phát ra từ một bản thể không còn nguyên vẹn. Chúng ta không làm thơ để cứu thế giới. Chúng ta làm thơ để nhớ rằng, từng có người đứng trước hư vô mà vẫn không im lặng.

    ( Trích tiểu luận: Những câu thơ không cần cứu ai, chỉ cứu người viết.)

    TUẦN THƠ 48: THƠ TRÊN BÁO THƠ

    Đào Quốc Minh

    CÁNH ĐỒNG CỐ HƯƠNG

    ôi cánh đồng cố hương tôi
    chiều ba mươi sụt sùi tiếng nước
    con quốc đau lòng trên mảnh ván đò trôi
    ván đò trôi ôi hỡi ván đò trôi
    như con mắt em tôi ngập một trời rầu rĩ
    lạc bến bờ lạc dòng thế kỷ
    bóng tháp xưa như bong bóng hải hà
    em chẳng về đắp mộ cho hoa
    ôi cánh đồng cố hương tôi
    chiều ba mươi chuông chùa làng lạnh lắm
    nằm hắt hiu tổ mối rỗng trên gò
    tiếng đã tắt những kinh cầu xa vắng
    bởi trong lòng mang đứa bé bơ vơ
    lau rậm rì lạc mất giấc mơ xưa
    ôi cánh đồng cố hương tôi
    chiều ba mươi linh hồn con chó nhỏ
    bỏ tôi đi xa tít tận chân trời
    tôi ngồi khóc trên nóc nhà không cánh
    đang trồi lên từ nhân gian bất hạnh
    những – nấm – mộ – mặt – trời
    tiếng sủa nào vọng lại phía xa xôi

    Trích: Thơ "Phục Sinh", Nxb Hội Nhà Văn, 2024.

    Anh Hồng


    ĐỘC THOẠI

    Còn rất nhiều điều đang dang dở
    chẳng lẽ lại buông tay?
    khi gạch đá ném vào ta tơi bời đau đớn
    khi những mặt nạ xung quanh rơi rơi
    từng gương mặt méo mó, dị dạng hiện ra
    không phải mặt người …

    Còn rất nhiều điều đang dang dở
    chẳng lẽ lại ngủ quên trong màn đêm êm dịu?
    mơ một giấc mơ được bay qua ngọn núi cao
    nhất chạm đến bầu trời …
    được khóc cười riêng ta …
    Chẳng lẽ lại buông tay?
    khi bóng tối ập về xóa nhòa vệt sáng
    sót lại bên chân trời vời vợi
    tiếng vạc kêu thống thiết …
    bám riết ta như xé nát lòng …
    chẳng lẽ … và chẳng lẽ?

    Trích thơ "tôi & đêm và", Nxb Hội Nhà Văn, 2013 (Thân quí tặng nhà thơ Khế Iêm) 

    n g . a n h a n h

    ĐÃ LÀ MỘT PHIỀN TOÁI SỐ 18

    Khi anh nói yêu em
    Loài quỷ dữ ẩn mình hiện hữu
    Không chờ triệu hồi
    Tái sinh

    Khi anh bảo không thể ngừng yêu em
    Cây hương thảo lìa đời
    Hơi thở lên đồng ép lồng ngực
    Giọt nước mắt vỡ thanh âm

    Kẻ thất bại mang hành trang quá nửa đời
    người.
    Em
    Chối từ
    Đoạn kết viên mãn
    Chúng mình hai cá thể nhân từ
    Đợi hoàn lương

    Khi anh nói yêu em
    Loài quỷ dữ ẩn mình
    Đừng đùa bỡn
    Lần thứ hai

    Trích thơ “Đã Là Một Phiền Toái”, Nxb Đà Nẵng, 2019

    Mão Xuyên

    KẺ KHỞI NGUỒN

    Chính anh, kẻ khởi nguồn mọi thứ
    Kẻ đã yêu một người bằng tất cả
    Vào một khoảnh khắc, và ruống bỏ
    Họ khi anh không còn thuộc khoảnh
    Khắc ấy, kẻ đã tạo ra cái bóng của
    Mình, kẻ đã tự moi xương sườn
    Chính mình, kẻ đã nói với cái
    Bóng, tất cả đều là anh
    Anh là bóng tối, là ánh
    Sáng và anh là cái không thể nói
    Lẫn cái hiển nhiên được bật
    Lên thành tiếng, nhưng những cái
    Bóng giờ đã quên mất chính mình
    Vẫn thường rỉ tai nhau từng
    Tiếng rên của anh khi cầm
    dao tự xẻo da thịt


    Mai Văn Phấn

    BÂY GIỜ MƯA PHÙN

    Khi mưa phùn đã làm lại từ đầu
    Anh còn trong mơ hét vang trong bóng tóc
    Em bảo khi ấy em đã tỉnh
    Bởi không gian ấm ướt đang về.
    Cứ thương anh sao mơ nhiều, mơ lâu quá
    Bởi lúc đó anh vẫn muốn hết mình
    Thế còn ai cầm tay em,
    Nghe tiếng thở của em bên kia mộng mị …
    Anh bỗng sợ rồi mưa phùn nghe thấy
    Biết chúng mình đã trẻ trung hơn xưa
    Những ý nghĩ lung tung chạy cùng sóng lá
    Mùa này nụ mầm thường lên rất nhanh.

    Trích thơ “Nghi Lễ Nhận Tên”, Nxb Hải Phòng, 1999. (Quí tặng Tạp chí Thơ)

    Phan Như

    NÓN

    Em đan những ngón tay màu xanh
    gọi mùa thu về bên dốc núi
    khi ta lăn tháng ngày gió bụi
    gặp em bỗng nhớ quê nhà
    Em đan những vần thơ tím ngát
    gọi nắng xuân về bên phố xưa
    khi ta nửa đời hương khói nhạt
    gặp người lại nhớ rừng xưa
    Tôi không mua cây lá trên ngàn
    tôi đâu bán bài thơ phố tím
    tôi chỉ là chàng xe thồ chở nón
    đem rừng thăm lại phố xưa
    Tôi xin đan một vòng tay ngà xanh
    để em che nụ cười xa vắng
    đời đi qua một ngày gió động
    quai tình tôi buộc nắng mưa

    Trích thơ “Sóng Vỡ Mạn Đời”, Nxb Đà Nẵng, 1999.

    Lê Hưng Tiến

    NHỮNG CON CHỮ TÁI SINH

    Thời gian dãn nở
    Tôi đốt mình cháy xuyên màn đêm
    Những con chữ dật dờ sống sót
    Những con chữ giành giựt sự sống cho nhau
    Những con chữ bị thiêu rụi trong cái chết
    tức tưởi
    Những con chữ í ới bầy đàn oán than
    Và những con chữ đôi lúc biết trước số phận
    của mình
    Tất thảy chỉ sự dãn nở thời gian
    Khi con quay chạy vạy giấc mơ
    Những con chữ hiển linh từ 4 giờ đến 5 giờ
    sớm muộn
    Mặt trời không dám đổ màu hồng lên
    đường đi của cỏ
    Tôi cũng không biết lối về của đôi mắt nhớ
    Thần quái bỏ hoang ngoài hành lang
    ngữ nghĩa
    Tất thảy chỉ sự dãn nở thời gian
    Khi thời gian lại tiếp tục dãn nở
    Sự phóng sinh là tội đồ của cánh hẩu
    trí tưởng
    Cơ thể tôi cũng bị những con chữ ám muội
    Nhập nhoạng trong mớ sản phẩm không
    thời gian
    Mỗi khi ban mai lên đồng
    Tôi cày xới được vụ mùa thơ thở
    Những con chữ bắt đầu tái sinh
    Đòi mặt trời mọc hướng đằng chân
    Không có lối cỏ đi về của gió
    Và tôi bắt đầu bơ vơ giữa thời gian dãn nở

    Trích thơ "Những Con Chữ Tái Sinh", Nxb Hội Nhà Văn, 2023. (Quí tặng nhà thơ Khế Iêm)
    Nguyễn Sao Mai

    HOA NI CÔ

    Hoa thiền nở đóa ni cô,
    Giật mình chuông mõ nam mô trúc bề.
    Mắt nâu rớt hột bồ đề,
    Ngẩn ngơ đỉnh Phật tóc thề em bay.
    Thiên cung dời xuống cõi này
    Để em hiện tướng tiên say giữa đời.
    Suối tiên tắm thịt da người,
    Câu kinh bỏ lại đất trời mai sau.
    Búp em hồng nụ nhiệm mầu,
    Tay năm ngón ấn hạc chầu dưới hoa.
    Khép chân sen nở kiết già
    Trên sen em nở một toà mê cung.
    Trang thơ này để cúng dường
    Ngọc thân bồ tát má hường trích tiên.
    Vung tay lật đổ giường thiền
    Áo xiêm bỏ lại qua triền cửa không.

    2010

    Đọc “Đường về thủy phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư

    https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2025/06/23/doc-duong-ve-thuy-phu-cua-nha-van-tyt/
    https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2025/06/23/doc-duong-ve-thuy-phu-cua-nha-van-tyt/
    VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2024
    Tựa: BÙI VĨNH PHÚC
    Bạt: NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
    Tranh & Thiết kế bìa: ĐINH TRƯỜNG CHINH

    Cuốn sách vẽ ra được một toàn cảnh với các chi tiết, tạo được một ấn tượng về cuộc chiến, về không gian và cuộc sống xã hội, lịch sử của các giai đoạn gối tiếp nhau. Và về cuộc bể dâu mà con người phải đối mặt, với những quyết định sai lầm của chính nó. Hay với cái “quyết định”, cái hướng đi mù loà, xiên xẹo và xộc xệch của lịch sử […] Cuốn tiểu thuyết này, với lịch sử được dùng làm một phông nền qua những gam mầu rất mờ nhạt, và ước muốn của nó, theo tôi thấy, là hướng về phía ánh sáng, về sự yên bình, về sự xoa dịu, qua lòng hiểu biết và niềm tin vào cái thiện, cái tốt.

    Bùi Vĩnh Phúc, nhà phê bình văn học.

    Với thủ pháp dùng hư cấu, phi hiện thực để người đọc lần ra chân tướng hiện thực, khiến Trịnh Y Thư có một thái độ khách quan khi viết về sự tương quan giữa các nhân vật với những sự kiện liên hệ đến lịch sử và ý thức hệ […] Thân phận con người quả là chiếc lá nhỏ nhoi trong cơn lốc lịch sử, đấy là một thông điệp nhắc nhở hay một kết luận buồn bã? Dù là gì nó đều nói lên nỗi thống khổ của phận người từ đó khích động các cảm xúc về lòng Trắc Ẩn, Nhân Đạo, Lương Thiện và Vị Tha. Đó là luồng ánh sáng chiếu xuyên suốt tác phẩm này, lấp lánh qua văn phong tả chân, bạo liệt mà không thiếu tính trữ tình của lòng nhân ái, đa cảm.

    Nguyễn Thị Khánh Minh, nhà thơ.

    1. Doãnh Cẩm Liên

    Đọc Trịnh Y Thư là đọc một nghệ thuật viết tiểu thuyết vừa siêu hình vừa hiện thực. Nó thực thực hư hư đầy bất ngờ ở những bước ngoặt tình tiết. Độc giả thoạt thấy câu chuyện là như vầy, nhưng đoạn sau nó lại mở ra một cảnh mới, nhân vật cũ mà cảnh thì khác. Lối sắp xếp câu chuyện, dàn cảnh như trong phim trường. Tác giả dẫn dắt khán giả như đang xem một cuốn phim mà nhà đạo diễn đổi cảnh quay, đổi đề tài, đổi tâm tính mà vẫn luôn giữ khán giả ở lại với nhân vật của truyện, của con người Việt Nam trong suốt ba cuộc bể dâu.

    Nhà văn Trịnh Y Thư thuộc nền văn học hiện đại, tại hải ngoại kể từ 1975. Nhìn dáng dấp, khuôn mặt, cách nói chuyện của ông, người ta thấy cái “cá tính” của ông hiện lên một cách rõ ràng. Những ai quen biết ông đều thấy cái gì ông đụng vào đều làm nó trở thành siêu! Làm nhân viên ngành điện tử viễn thông, viết văn, chơi classical guitar, sáng tác nhạc, ông đều làm tròn vai trò một cách xuất sắc.

    Đường về thủy phủ là quyển sách gồm ba truyện vừa. Thoạt tiên độc giả cứ tưởng ba mẩu chuyện Ký ức của loài bò sát, Dưới những gốc nho biển và Đường về thủy phủ với tình tiết của những nhân vật khác nhau, ở những thời điểm khác nhau, chẳng liên hệ gì với nhau. Thế nhưng không! Trịnh Y Thư đã không tiết lộ gì cả ở hai truyện đầu, và chỉ dần mở ra rồi nối kết chúng lại ở truyện vừa thứ ba Đường về thủy phủ. Các nhân vật bác sĩ Mẫn trong Ký ức của loài bò sát, nhân vật “cô” trong Dưới những gốc nho biển, nhân vật “tôi” trong Đường về thủy phủ đều có dây mơ rễ má với nhau.

    Đọc Trịnh Y Thư để thấy tính cách, lối suy nghĩ, hành xử của người Việt Nam, tạm đại diện bởi những nhân vật trong truyện của ông, ở ba thời đại. Thời kỳ Pháp thuộc, thời hậu chiến tranh 1975, và thời kỳ lưu vong nơi xứ người. Cả ba thế hệ tuy với số tuổi cách biệt nhau từ 80 năm đến 20 năm tuổi đều có những tình cảm, nỗi niềm, khổ sở, chấn động tâm lý chẳng khác nhau là mấy. Cái hay của tác giả là lịch sử đất nước, con người Việt Nam trải dài từ hậu bán thế kỷ 20 đến đầu thế kỷ 21, tất cả đều rất đúng, đều có thực. Ông đã tiểu thuyết hóa các nhân vật, trong đó là đại diện cho một số người có thật ở từng thời và từng vùng.

    Ở Ký ức của loài bò sát, những nhân vật ở độ tuổi thiếu niên lớn dần thành những thanh niên sống trong khung cảnh lịch sử của người Việt chống Pháp. Họ sống động và sống thực, nên họ khóc cười, nôn ọe giống y tình huống thực của người đương thời ngày ấy. Những thiếu niên đùa phá rồi cười khúc khích khi xem trộm cảnh cô gái tắm bên giếng vườn sau nhà. Rồi thời gian trôi, người ngày lớn dần lên, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, cách đối xử của hai phe Việt Minh và kẻ xâm lấn – người Pháp – ngày càng tàn khốc. Tác giả đã tả chân và thực đến nỗi độc giả cũng phải muốn ọe theo tình cảnh của truyện. Nhưng tác giả vẫn luôn giữ được tính nhân bản của người Việt Nam ở phần kết, ở lời ru bú mớm của nhân vật Xụ Phụn Phèn. Cô ru đứa con khi cả hai mẹ con đều không còn trên cõi đời nữa: “Yêu là gì, hả mẹ?” “Yêu là có thể hy sinh thân mình cho người mình yêu.” “Thế mẹ có yêu bố không” […] “Bố sẽ về với mẹ con mình mãi mãi…” “Bao giờ, hả mẹ?” “Bố hẹn với mẹ con mình ở thủy phủ…” […] “… Họ cùng về thủy phủ với mình, nơi không còn bom đạn hay hận thù, nơi mẹ con mình sẽ gặp bố, bố sẽ yêu thương bảo bọc mẹ con mình. Thôi con nhé, con hãy ngủ đi, khi nào mặt trời mọc là mình đến nơi.”

    Trịnh Y Thư tài tình là vậy, ông chiếu cảnh người tàn sát người, người với bao nhiêu là tính xấu hành xử với người chân chất thật thà, nhưng ông vẫn lồng vào đấy “tình người”. Sự yêu thương giữa người và người có thật, cho dù thật hiếm hoi vì nó phải được che phủ dưới một lớp mặt lạnh lùng, vào thời điểm đó. Cái tài tình nhất là ông chấm dứt câu chuyện ở tình yêu thương của mẹ và con và người cha. Ông thuyết phục độc giả lấy lại niềm tin về con người. Con người có đốn mạt bao nhiêu vẫn không thể xóa hết những tính yêu thương chân thật trong lòng. Tính yêu thương của những người thật là “người”, không phải là “ngợm”!

    Trong Dưới những gốc nho biển, nhân vật “cô” là nhân vật có thật đâu đó, trải dài suốt đất nước Việt Nam. Với tình huống chính trị đã qua thời chiến tranh, súng đạn của người miền Bắc – cộng sản xâm chiếm người miền Nam – Việt Nam Cộng Hòa, đã ngưng bặt. Nhưng người Việt ở cả hai miền Bắc-Nam nào được sống thanh bình trong yêu thương. Chế độ cộng sản và con người cộng sản vẫn còn tính hung tàn. Chẳng hiểu tại sao!? Nên, người miền Nam phải ra đi tìm tự do, cho dù họ quăng mình vào biển cả một mất một còn. Người vượt biển có thể thành công để đến bến bờ bên kia, ở một nước thứ ba. Hoặc họ thất bại thì lại tìm đường về Thủy Phủ, nơi không còn hận thù hay oán ghét. Nhân vật “cô” sống như ảo ảnh trên cõi đời vì thiếu tình thương mẫu tử. Mặc dù bên cạnh cô vẫn còn một bóng người yêu thương cô đấy, ông “bác sĩ bộ đội”. Có phải chăng nhân vật Mẫn trong truyện Ký ức của loài bò sát xuất hiện trở lại? Nhưng tình yêu của ông ta vẫn không thể thay thế được tình mẹ con mà cô đang tìm kiếm.

    Và cuối cùng cô cũng tìm về Thủy Phủ!

    Tiếp đến truyện thứ ba Đường về thủy phủ, độc giả cứ ngỡ và chờ nhân vật “tôi” cuối cùng cũng tìm đường về Thủy Phủ. Nhưng không! Tác giả không cho phép là vậy. Ông dùng kỹ thuật nghệ thuật viết tiểu thuyết tạo dựng nhân vật “tôi” bước ra từ trang sách của một nhà văn-giáo sư. “Tôi” như ảo ảnh dưới mắt độc giả. Nhân vật nữ mà giáo sư-nhà văn đã vẽ ra trong truyện để rồi cô sống thật. Mà chính nhân vật này đã nhiều lần “càm ràm” với giáo sư-nhà văn là mình quái đản cũng do vì ông đã tạo ra nó. Cả tác giả lẫn nhân vật sống quyện vào nhau, tạo ra những cảnh “thật” mà giống như “không thật” ở một xứ sở văn minh nhất trái đất. “Tôi” quay cuồng sống mà thẳm sâu trong tâm thức cô vẫn hỏi rằng “tôi là ai”, “bố mẹ tôi là ai?” Cô thiếu tình yêu thương máu mủ từ cha mẹ. Để rồi… “tôi” làm một chuyến trở về quê hương. Tìm kiếm lại gốc gác của mình với hy vọng mong manh là thấy lại được người mẹ ruột của mình. Và độc giả đã cùng “tôi” thấy được bao cảnh đời có thật mà người Việt phải chịu đựng trong cái gọi là “thời bình” đầy nhiễu nhương này.

    “Tôi” không tìm ra được mẹ, nhưng ngược lại cô tìm được một ông “bố”. “Bố và con” rất tương đắc ở thời gian này. Bố-con chẳng có mảy may huyết thống nào, nhưng lại có được một tình thương yêu chân thật là nhờ vào cái gạch nối “mẹ” của cô. “Tôi” gần như sống trọn vẹn ở thời gian hiện tại, nơi “mẹ” cô từng ngồi. Và cuối cùng “tôi” quên khuấy cái chết cứu cánh mà cô đã từng nghĩ đến.

    Thủy Phủ bị bỏ quên!

    Màn từ từ hạ cùng với tiếng cười của hai “bố-con” ở nơi “mẹ” đã từng ngồi.

    “Thủy Phủ” là chốn dành cho người có ước mơ mà không thành và cũng cho cả người đạt được ước mơ, nữa chứ. Ai mà chả chết! Thủy Phủ sẽ là thiên đường hay địa ngục tùy ở từng người. Người nào lúc ra đi với tâm hung ác thì Thủy Phủ chỉ có thể là địa ngục. Địa ngục ngay ở trần gian, ngay khi còn hít vào thở ra. Còn với người ra đi với tâm lành thiện, nhiều yêu thương thì Thủy Phủ sẽ trở thành thiên đường với đầy yêu thương, trở lại bản tính nguyên thủy của con người.

    Thiện-ác, thiên đường-địa ngục là hai phạm trù mà con người khó tránh khỏi. Cái vấn đề ở đây là sống làm sao để ta có ngay thiên đường khi đang còn hít thở. Địa ngục-thiên đường nó nằm trong tâm. Cái tâm không ai nhìn thấy nó đang ở đâu, nhưng nó lại được nhận ra bởi sự yêu thương của người trao cho người. Nó còn được nhận ra bởi ánh mắt, tiếng cười và lời nói mà con người trao cho nhau.

    Thủy Phủ sẽ tràn đầy lòng yêu thương và vang tiếng cười khi con người hiểu biết thế nào là tâm lành và tâm thiện!

    Doãn Cẩm Liên | (California, ngày 30 tháng 10, 2024)

    2. San Phi

    Cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư là một tác phẩm ám ảnh và đầy trăn trở, khiến tôi phải đọc đi đọc lại và phải suy ngẫm nhiều lần. Vì sao? Vì mỗi khi khép sách lại, tôi luôn có cảm tưởng dường như mình đã bỏ sót một điều gì đó…

    Tác phẩm tập hợp ba câu chuyện riêng lẻ nhưng được gắn kết bởi chủ đề chung: sự thất lạc của con người trong cuộc sống, hiện đại, đặc biệt là trong chiến tranh.

    Đây là một tác phẩm siêu hư cấu phá vỡ những khuôn mẫu tiểu thuyết truyền thống, với những thử nghiệm về hình thức và kỹ thuật kể chuyện hiện đại.


    Phần I – Ký ức của loài bò sát: Nỗi ám ảnh bi kịch chiến tranh

    Phần I, Ký ức của loài bò sát là câu chuyện đầy nhức nhối được kể lại từ một ông lão chín mươi tư tuổi, đưa chúng ta trở về đoạn thời gian thống khổ, khốc liệt đầy những thảm cảnh man rợ và nhiều hệ lụy trong bề dày lịch sử, nơi mà những số phận khiến ta phải động lòng thương cảm xót xa, do con người Việt Nam đã gây ra cho chính dân tộc mình. Phải chăng sự tàn khốc máu lạnh được tác giả ví như những loài bò sát, mở đầu cuốn tiểu thuyết? Bằng những ký ức tuổi thơ bình yên của cậu bé 13 tuổi (ông lão khi còn nhỏ) ở Hà Nội thơ mộng, với những cánh đồng lúa xanh mướt và những trò chơi hồn nhiên. Đó là khoảng thời gian sung sướng nhất đời đối với những cậu học trò tinh nghịch, khoảng thời gian bọn trẻ được vui chơi thả diều, bắn chim. Hay hình ảnh cả bọn rủ nhau leo cây bị kiến cắn khi xem trộm cô hàng xóm tắm.

    Tuy nhiên, bầu trời tự do đầy nắng kể từ khi gió lột sạch những lớp áo lá, và rồi bão dữ cuồng phong cũng ập đến. Bức tranh bình yên nhanh chóng bị thay thế bởi sự tàn khốc của chiến tranh khi quân Nhật tràn vào Đông Dương, dẫn đến nạn đói khủng khiếp ở miền Bắc.

    Cảnh tượng người dân chết la liệt khắp nơi, những người kiệt sức, đói khát, và phải chịu đựng nỗi đau mất mát người thân mà không thể cứu giúp. Đặc biệt, đoạn kể về việc một người đàn ông phải lóc thịt con mình để làm giò ăn là một trong những chi tiết rùng rợn và đau đớn nhất, thể hiện sự tàn khốc đến cùng cực của nạn đói và sự mất mát tinh thần mà con người phải chịu đựng.

    “Mấy tháng qua làng tôi đói đến độ chết gần hết cả làng. Thoạt tiên là bọn trẻ con. Chúng chết nhanh lắm. Chỉ ba hôm không có cái ăn là bụng chúng ỏng ra, hai mắt như chó dại, ngồi đâu ngồi một chỗ, ruồi nhặng bám đầy mặt đầy người cũng không buồn xua đi. Chỉ một đêm là chết.”

    (Ký ức của loài bò sát, tiểu đoạn 3).

    Qua những trang sách tác giả mô tả: Ở mọi ngóc ngách, mọi diễn biến, mọi tình hình, người nằm chết la liệt ở khắp các con đường, hình ảnh những người kiệt sức, sống dở, chết dở vì đói khát, kiệt sức và lo sợ, còng queo xếp hàng dài nối nhau đi xin ăn…

    “Còn đây giọt máu lặng thinh

    Rơi mềm đá sỏi lặng nhìn thế gian”.

    Nhìn thấy người thân chết mà không cứu được, biết đến lượt mình rồi sẽ chết mà không thoát được. Muốn tìm cái sống đã phải dứt bỏ nhà cửa ra đi, mong sao được cứu sống, nhưng rồi lại chết gục giữa đường. Trang sách phơi bày rất nhiều cái chết và xác chết, rất nhiều những hình ảnh hãi hùng man rợ và khủng khiếp, mà có lẽ nhiều người muốn quên đi mới có thể sống tiếp.

    Tháng ngày còn in trên lồng ngực. Chúng ta luôn đi qua hiện tại với một màn che bưng mắt, tấm màn đó là những điều trực tiếp “tai nghe mắt thấy” hạn hẹp của mỗi cá nhân. Vì thế mà những thời khắc ta đang trải qua, có thể rất lâu sau này, trong những giấc mơ chừng như gục đầu trầm tư u uẩn. người ta sẽ còn quay trở lại mãi để khám phá những lớp sự thật dưới đống tro tàn đổ nát lịch sử.

    Với ngòi bút tinh tế, tác giả không sa vào chiến tranh, chiến tích mà đi sâu vào cảm xúc. Tác giả đã khéo lồng vào câu chuyện những nhân vật tham gia chiến trường, đã dồn toàn bộ sức lực của mình trong mọi nỗ lực cho cuộc chiến. Tình bạn của anh dân quân và tù nhân người Pháp, tình yêu của nhân vật chính xưng tôi và cô gái người H’Mông. Nhân vật trong truyện không như các tác phẩm ngôn tình trong những cuốn tiểu thuyết thông thường khác, mà họ thực tế đến từng chi tiết, như được bước ra khỏi trang sách và sống trong thế giới thực vậy.

    Mối tình đầu tiên: Khúc bi ca của núi rừng và dòng suối

    Xụ Phụn Phèn, cô nàng người H’Mông ngây thơ mười lăm tuổi trong veo như một cơn gió nhẹ, bình yên và tươi mới, nhưng đầy ẩn chứa những khát khao yêu:

    “Xụ Phụn Phèn là cô gái H’Mông mới mười lăm tuổi nhưng yêu tôi lắm. Da dẻ cô trắng hồng chứ không đen đủi như nhiều cô H’Mông khác. Khuôn mặt cô trong sáng, đôi mắt nâu, hai làn môi mỏng lúc nào cũng thắm đỏ, và khi cô trút bỏ chiếc áo thổ cẩm màu đen, nằm dài trên thảm cỏ mượt mà bên bờ suối thì trước mắt tôi hiện ra một bông hoa rừng tuyệt đẹp, chờ đợi tôi cúi xuống chiêm ngưỡng và chiếm đoạt.”

    (Ký ức của loài bò sát, tiểu đoạn 14).

    Một khúc ca đẹp. Thế nhưng, định mệnh nghiệt ngã giáng xuống. Đoạn thảm sát cuộc tấn công máu, diệt cả buôn làng người H’Mông. cho thấy số phận mỗi con người trở nên mong manh, ngắn ngủi và vô vọng giống như số phận của hai mẹ con Xụ Phụn Phèn. Đọc đến đây hình ảnh kinh khủng nhất hiện ra trong đầu tôi, một địa ngục trần gian chìm trong máu và nước mắt.

    Bi kịch hằn sâu khi nàng Xụ Phụn Phèn ra đi, mang theo một sinh linh bé bỏng, giọt máu của mối tình đầu tiên. Trong giấc mơ hư ảo, nàng thì thầm cùng con, một lời hứa đau đáu:

    “Đúng vậy, con ạ. Họ cùng về thủy phủ với mình, nơi không còn bom đạn hay hận thù, nơi mẹ con mình sẽ gặp bố, bố sẽ yêu thương bảo bọc mẹ con mình. Thôi con nhé, con hãy ngủ đi, khi nào mặt trời mọc là mình đến nơi.”

    (Ký ức của loài bò sát, tiểu đoạn 29).

    Nơi chỉ còn sự bình yên vĩnh cửu của những dòng nước trong xanh. Đó là lời ru cuối cùng, là cánh cổng mở ra một thế giới khác, hành trình “đường về thủy phủ” của mẹ con Xụ Phụn Phèn, đây có lẽ là mong muốn của tác giả, muốn lồng vào trong độc giả đoạn phim ngắn một hứa hẹn bình yên nhất khi ta được trở về với bản thể uyên nguyên. Nơi mà không còn bom đạn hay hận thù, nơi tình yêu sẽ không bao giờ bị tổn thương.


    Phần II – Dưới những gốc nho biển: Khúc bi ca lạc lõng

    Nếu Phần I khắc họa những hình ảnh và hệ lụy tàn khốc mà chiến tranh gieo rắc lên đời sống người dân Bắc Việt, thì Phần II lại mở ra một bi kịch khác: Câu chuyện về một người con gái miền Trung, số phận như một chiếc lá lìa cành, bị cuốn trôi vào Nam rồi cuối cùng lại giạt về Bắc, để rồi chọn một cái kết bi thảm giữa vòng xoáy cuộc đời.

    “Hôm cô tự kết liễu đời mình, cô mặc chiếc áo lụa trắng ra chợ huyện như một thói quen. Ra chợ nhưng cô không mua thức ăn như mọi lần về nấu cho cô và gã bác sĩ bộ đội ăn tối. Đầu óc cô hoàn toàn trống rỗng như tờ giấy trắng tinh, hai chân cô như bị vô thức sai khiến, mắt cô nhìn nhưng chẳng hình ảnh nào đập vào trí óc, và các thứ âm thanh hỗn độn của một buổi họp chợ sáng nghe như những nhiễu âm không qua máy lọc.”

    (Dưới những gốc nho biển, tiểu đoạn 1).

    Nhà văn Trịnh Y thư có một lối viết độc đáo, nó là những biến tấu lãng mạn, một kết hợp giữa hiện thực khốc liệt và cảm xúc thăng hoa.

    Trong bức tranh nghệ thuật của Trịnh Y Thư, khi đối diện với những bi kịch cuộc đời, ngòi bút hóa thành một chứng nhân điềm tĩnh, khách quan và đôi khi lạnh lùng, như một nhà sử học ghi lại dòng chảy nghiệt ngã của thời gian. Những sự thật trần trụi được phơi bày không cần một chút cường điệu, để nỗi kinh hoàng từ câu chuyện vang vọng trong không gian tâm hồn người đọc.

    Tuy nhiên, khi chạm đến những cảnh vật, ngòi bút lại trở nên mềm mại và trữ tình đến lạ. Như dòng suối tuôn chảy, thấm đẫm từng câu chữ, biến những khung cảnh vốn vô tri thành một bức tranh sống động, vừa chân thực lại vừa nên thơ.

    Hãy lắng nghe tiếng lòng của dòng sông: “… nước sông đỏ lờ lợ chảy nhẹ.” Đó là một hiện thực không thể chối cãi, nhưng khi âm thanh ấy hóa thành tiếng “thao thiết” cất lên, nó không còn là dòng vô tri chảy mà là lời thì thầm của tâm hồn, là khúc hát da diết của bao nỗi niềm chất chứa trong lòng nhân vật. Có lẽ, hình bóng “Cô”, một biểu tượng của nỗi đau hóa thân, nhưng cũng là ánh sáng phản kháng mong manh, le lói giữa màn đêm số phận.

    Nhân vật “Cô” như một linh hồn lạc loài, bị số phận “du vào thế thụ động” với những biến cố tàn khốc đến xé lòng. Sự kiện Mậu Thân 1968 không chỉ là một trang lịch sử mà còn là vết sẹo không thể xóa nhòa trong ký ức của “Cô”. Hình ảnh toán lính xông vào nhà, cảnh người mẹ đi tìm xác chồng trong những hố chôn tập thể ở Huế, đặc biệt là chi tiết rợn người về chiếc “đầu lâu thứ mười tám”, tất cả là những mảnh vỡ của một quá khứ đầy đau thương, gieo rắc nỗi ám ảnh khôn nguôi.

    “Bà ngồi xổm, hai tay bưng cái sọ người, ngắm nghía thật kỹ hàm răng trắng nhởn. Người sống, mỗi người một khuôn mặt, không ai giống ai, nhưng khi chết rồi, không sao phân biệt được xương sọ người này với người kia, cái nào cũng y hệt như nhau. Hai hốc mắt sâu hoắm của cái sọ người chĩa thẳng thật sát vào mắt bà như thôi miên…

    […]

    Xem đến cái đầu lâu thứ mười tám thì bà biết chắc đây là đầu chồng bà.” (Dưới những gốc nho biển, tiểu đoạn 10).

    Hậu quả không chỉ để lại những vết thương thể xác mà còn đục khoét tâm hồn “Cô” đến mức tê liệt. Nhà văn Trịnh Y Thư không né tránh việc chạm vào những tổn thương sâu sắc nhất, từ sự lạm dụng tàn bạo đến trạng thái “rối loạn lưỡng cực” và sự vô cảm đến ghê người. Tác phẩm không chỉ là tiếng lòng của một cá nhân mà còn là tấm gương phản chiếu hiện thực khi “sự tử tế không thấy đâu nữa” và “xã hội chìm trong bùn đen”. “Cô” và người chồng định mệnh của mình, một thiên tài Toán học, bị tù cải tạo và chết bi thảm, xác thân bị thú rừng cắn xé trở thành biểu tượng cho sự hủy hoại những giá trị cao đẹp nhất.

    Trong ngõ hẻm chật chội và những con phố đã đổi thay, một mối tình dị thường, như một bông hoa dại nở trên nền đất cằn cỗi, đã nảy nở giữa hai linh hồn lạc lõng. “Cô”, người phụ nữ mang trong mình nỗi đau chồng đã khuất trong trại cải tạo, gánh nặng con thơ và gánh nặng mưu sinh bằng những đêm dài ở quán cà phê, đôi khi là cả việc bán thân. Còn “gã” là một bác sĩ quân y Bắc quân, mang trong ánh mắt sự tĩnh lặng của cuộc chiến đã qua nhưng những vết thương không thể chữa lành.

    Mối tình này khởi đầu như một giấc mơ, từ cách “gã” dõi theo “Cô” đầy ám ảnh, cho đến sự thật rằng “gã” chỉ muốn ngắm “Cô” trong trang phục, được dàn dựng công phu như một bức tranh hoàn hảo, không chút dục vọng.

    Phải chăng trong mắt kẻ si tình khắp nơi đều là màu hồng, kể cả những điều được cho là phi lý? Thú thật, đọc đến đây tôi rất muốn hỏi tác giả, tôi không thể tưởng tượng nổi gã ngắm gì ở cô mà ngắm một cách say đắm suốt nửa giờ nhỉ?

    “‘Anh đi tắt đèn.’

    “Không, tôi thích để đèn.” Giọng gã từ tốn, êm nhu.

    Cô đưa tay lên lần cởi khuy áo nhưng gã giơ tay cản lại. Cô nhìn gã ra vẻ thắc mắc, gã bảo cô:

    ‘Cô cứ để nguyên quần áo. Tôi chỉ ngồi đây ngắm cô thôi.’

    Cô không nói gì nữa, thấy hơi lạ về trò chơi này của gã bác sĩ bộ đội, nhưng cô từng gặp những gã làng chơi có sở thích tình dục kỳ quặc, thậm chí quái đản, nên cô chẳng lấy gì làm kinh ngạc, và cô nằm yên cho gã ngắm mình. Gã ngồi ngang đùi cô, từ vị trí đó, gã có thể ngắm mặt cô rồi đến bộ ngực vun tròn, và xuống dần hạ thể nơi cặp đùi đàn bà săn chắc hiện rõ dưới lớp vải mỏng của chiếc quần tây màu đen. Gã ngồi nhìn cô như thế cả nửa giờ đồng hồ, hai người không nói gì với nhau.” (Dưới những gốc nho biển, tiểu đoạn 3).

    Chỉ có một nỗi buồn xa vắng lạ lùng, một sự cảm thông vô hạn chảy tràn trong ánh mắt của “gã”, như dòng sông âm thầm chảy qua những miền ký ức xót xa. Nhà văn Trịnh Y Thư đã khéo léo khắc họa sự “hiểu biết và nhạy cảm” đến lạ lùng của gã, biến câu chuyện tình yêu này thành một nỗi buồn rất thật, rất thấm thía của những con người bị cuốn vào vòng xoáy lịch sử, của những giấc mơ dang dở và những vết thương không thể lành.

    Chữ nghĩa của nhà văn Trịnh Y Thư luôn khép lại bằng một kết lửng, luôn để lại nhiều trăn trở cho người đọc, để độc giả tự tìm thấy một câu trả lời thỏa mãn cho chính bản thân mình.


    Phần III – Đường về thủy phủ: Vũ điệu siêu thực của Nàng và kẻ sáng tạo

    Trong cõi siêu thực, nơi ranh giới giữa thực và ảo mờ nhòe như sương khói, xuất hiện một mối tình cuồng si, đầy nổi loạn. “Tôi”, một nhân vật nữ tự xưng mình bước ra từ trang tiểu thuyết của “gã nhà văn” đang dạy học tại một miền đất xa xôi, mang trong mình cả sự căm thù lẫn say đắm.

    “Tôi thù gã nhà văn khôn tả. Tôi thù gã đến độ tôi muốn giết chết gã. Tôi ao ước có một mũi dao nhọn sắc lẻm cho tôi ấn sâu vào ngực gã với động tác êm nhẹ, từ tốn để trái tim gã khi bị mũi dao đâm thủng vẫn không hay biết đang bị đâm mà tiếp tục hân hoan đập những nhịp đập hối hả như thể sợ ngày mai không còn được đập.”

    (Đường về thủy phủ, tiểu đoạn 1).

    Cô căm ghét gã vì gã đã sáng tạo và ban cho cô một thân phận, một số phận mà cô không hề chọn lựa. Nhưng cũng chính gã là người đã thổi hồn vào cô, đã cho cô một cuộc sống, và từ đó, một tình yêu mãnh liệt, cháy bỏng đã nảy sinh, như ngọn lửa bùng lên từ tro tàn.

    Câu chuyện càng trở nên phức tạp hơn khi cô, như một “sản phẩm” bứt ra khỏi khuôn khổ, “dan díu” với những cậu sinh viên khác, thể hiện sự nổi loạn của một linh hồn khát khao tự do, khát khao định đoạt số phận mình.

    Mối tình này là sự hòa quyện giữa ảo ảnh và hiện thực, giữa trí tưởng tượng của người nghệ sĩ và đời sống cuộn chảy, mang đến vô vàn tầng ý nghĩa về thân phận, về sự tồn tại, về sự giằng xé giữa người sáng tạo và tác phẩm, giữa ước mơ và thực tại phũ phàng.

    Trong một bối cảnh hiu quạnh của ghềnh đá đen trơ trọi giữa biển hoang sơ, với sóng vỗ rì rào và ánh đèn khách sạn trong sương chiều, một mối tình khác len lỏi, mang đến sự dịu dàng và trầm lắng. Nàng, một “đóa hoa tri thức”, và “gã nhà văn” xuất hiện như hai “dương bản” của một nguyên thể.

    Họ là hai tâm hồn đồng điệu nhưng đối lập: nàng day dứt trước sự phi lý của kiếp người, gã kiên cường đối mặt thử thách. Mối quan hệ này là minh chứng cho một nội tâm bất tận, nơi nỗi đau và hy vọng, bi ai và dũng khí đan xen. Cả hai đều mang trong mình những vết thương lòng, những phản ứng bất thường và sự cô độc đến tận cùng, cùng nhau vật lộn với nghịch cảnh, tìm kiếm bình yên trong nỗi đau chung. Mà không phải ai cũng cảm nhận được nỗi sợ hãi, áp lực, nỗi cô đơn cùng cực, thật sâu từ trong tâm hồn.

    “Tô phở” và hành trình trở về nguồn cội

    Cuộc đời của “gã nhà văn” được Trịnh Y Thư khắc họa như một ân hận và nỗi buồn, hằn sâu bởi bi kịch chiến tranh. Giữa những giằng xé ấy, văn chương Trịnh Y Thư mở lối, không chỉ chạm đến nỗi bất lực của phận người mà còn gieo mầm hy vọng.

    Và cùng lúc là hành trình của cô gái trở về nguồn cội. Điểm nhấn là hình ảnh “tô phở”, một biểu tượng của sự bình yên và nguồn cội. Trong một quán ăn Việt Nam hai người tình cờ ghé vào trên bước đường lang thang vô định, bỗng nhiên tiếng mẹ đẻ và hương vị tô phở nồng nàn không chỉ xoa dịu tâm hồn cô mà còn kết nối cô với cội nguồn, với quê hương và hình bóng người mẹ. Tô phở ấy đã dẫn lối cho cô trở về, tìm thấy an ủi và bình yên trong chính căn nhà cũ, nơi cô thuộc về.

    Thủy phủ: Chốn nương tựa siêu hình

    Xuyên suốt tác phẩm, “Đường về thủy phủ,” dẫn dắt người đọc đến những miền cảm xúc sâu thẳm, và có lẽ cũng là lời tự vấn về những điều còn mãi sau tất cả những biến cố của cuộc đời. Với một cái kết nhân hậu và nhân bản, nhà văn Trịnh Y Thư đã dẫn chúng ta trở về Thủy phủ, nơi yêu thương thay thế cho hận thù, và đời sống phù du này chỉ có ý nghĩa khi nào nó được định hình bằng tình yêu.

    Đắm chìm vào từng trang sách, dù Lời ngỏ nhà văn Trịnh Y Thư có nói đây chỉ là câu chuyện hư cấu, là sản phẩm của trí tưởng tượng, nơi cuộc chiến chỉ hiện hữu qua những dòng chữ tài liệu, nhưng lạ thay, trái tim tôi đã vương vấn, đã hòa cùng nhịp đập với từng nhân vật. Như thể định mệnh đã an bài, những mảnh đời hư cấu ấy bỗng trở nên chân thật đến lạ, len lỏi vào tâm hồn, để lại những trang sách khó phai.

    San Phi | Saigon, ngày 16 tháng 6 năm 2025

    Họa sĩ Nguyễn Gia Trí nói về sáng tạo

    “Lò cừ nung nấu sự đời/ Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” _Hs. Nguyễn Gia Trí
    “Lò cừ nung nấu sự đời/ Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” _Hs. Nguyễn Gia Trí
    Ghi chép của họa sĩ Nguyễn Xuân Việt

    Lời giới thiệu của Thụy Khuê

    Ha sĩ Nguyn Gia Trí không ch đ li tranh mà còn đ li li cho hu thế. Nhng li ông nói trong khong t 75 đến 92 được ha sĩ Nguyn Xuân Vit, người hc trò ghi li trong mt cun cm nang nh ta đ “Ha sĩ Nguyn Gia Trí nói v sáng to” do Nhà xut bn Văn Hc in năm 1998 ti Sài Gòn. Đây là nhng câu nói tuy đc lp mà cũng như liên lc mt thiết vi nhau v ngh thut hi ha, ngh thut sơn mài, ngh thut sng, ngh thut thin ha.

    Ha đo cũng như trà đo rút cc ch là con đường tìm đo ca mi người: bc tranh là phương tin đ người ngh sĩ “nâng” mình lên, v xong phi “b” nó đi, tìm li khác. Ngh thut nào cũng thế, nếu ngh sĩ ch biết dng li mt tác phm mà không tìm cách nâng mình lên là không sng na. 

    Đc trích lc mt s li ca Nguyn Gia Trí, cũng là mt cách xem tranh ca ông, cách xem tt nht không qua li người phê bình mà trc tiếp qua li ha sĩ.                                                  Th. Kh.


    http://1.bp.blogspot.com/-mHLR6R3SBWw/UtsD5WYeImI/AAAAAAAAclc/IZhz37C27jU/s1600/images.jpg

    01.06.1975

    Cứ vẽ, gặp cái gì vẽ cái ấy. Vẽ cho nhanh, cho kịp cảm xúc của mình.

    Phải luyện mắt để nhìn, để thấy cái đẹp. Vẽ làm sao phải tạo được cuộc sống, cuộc sống xanh tươi như hoa cỏ.

    Nếu tự mình không cảm xúc, không sáng tạo, thì không ai có thể giúp mình sáng tạo được.


    14.11.1975

    Giữa sáng tác và cuộc sống phải trong suốt, là giao cảm trực tiếp. Cuộc sống khơi gợi ta vẽ. Như cây phải hô hấp ánh sáng và nước, để nuôi lá đâm hoa.

    Vứt bỏ mọi thành kiến cũ, xưa. Vẽ với đầu óc hoàn toàn mới. Chính những định kiến ước lệ giết chết nghệ thuật.

    Đừng nghĩ đến kết quả của tranh, hay kết quả đời người nghệ sĩ. Hãy yêu và say mê cái đẹp. Học tập rút kinh nghiệm mọi người. Nhưng vẽ theo bản lĩnh của ta.

    Tuổi trẻ là tuổi sôi động sáng tạo. Phải làm việc thật nhiều ở tuổi sung sức này.


    05.01.1976

    Đứng trước thiên nhiên và con người, phải xua đuổi mọi lý thuyết, giao cảm trực tiếp với con người và thiên nhiên mình vẽ.

    Nên tạo sự thông cảm giữa giấy, mực, bút, chất liệu, để làm nên tác phẩm. Mỗi chất liệu có tiếng nói riêng, phải hiểu nói tiếng ấy.

    Tính dân tộc không phải là lý thuyết, định kiến, nó từ tình cảm và cuộc sống của mỗi người, mỗi dân tộc tạo nên.

    Bản chất và tính cách của mỗi người hiện lên trên tác phẩm, như thô bạo, trong sáng, hoặc yếu ớt, khỏe khoắn…

    Vẽ nhiều chất liệu, thể loại, để mở mang đầu óc.


    28.03.1976

    Cái chính là hướng vẽ đúng (1)

    Kỹ thuật cũng giống như xe đạp anh dùng để đi. Chú ý nhiều đến xe thì sẽ trở thành thợ máy. Phải có xe riêng của mình. Tất cả kỹ thuật đều chỉ là phương tiện.

    Khi vẽ phải vứt bỏ mọi thành kiến. Thành kiến đã đầy rồi, thì rót gì vào cũng chỉ tràn ra.
    Mỗi chất liệu có sở trường, sở đoản riêng. Phải biết tận dụng nó.

    Người nghệ sĩ có sáng tạo, thì để tay vào cái gì, cái ấy thành nghệ thuật.

    Hãy cứ đi mãi, làm việc mãi đừng nghĩ đến đích. Chỉ riêng tìm thấy chút cái đẹp mong manh, cũng là cả một quá trình mệt nhọc của người nghệ sĩ.

    Khi vẽ là chúng ta sử dụng cái hữu hình để nói cái vô hình. Sa lầy vào lý luận, cảm xúc văn học, là rất nguy hiểm.

    Nhìn hình phải rõ hơn. Vẽ thế nào để người ta thấy cây này khác cây kia.

    Chủ yếu là do con mắt, nhìn hình chắc, thì nét vẽ chắc, màu chắc.


    04.05.1979

    Thời kỳ Van Gogh (2) Gauguin (3) và Cézanne (4)… họa sĩ bắt chước thiên nhiên một cách trực tiếp. Còn đến Picasso trở đi, thì làm ngược lại. Trước kia khung tranh là một cái cửa sổ, bên trong là thiên nhiên. Nay thì tranh là tranh. Trước kia tạo không gian ba chiều trên mặt phẳng, nay chỉ có hai chiều vì nó thật hơn.

    Thấy mình đã là một bước tiến bộ lớn (5). Nhưng thấy mình, phải tự vượt lên mình. Không bị cái thấy ấy chi phối, thì mới giải thoát được. Học vẽ là phải tự mình suy nghĩ, tự mình đi. Cứ soi vào tâm mình thì không bao giờ lạc lối. Nghệ sĩ chân chính thì không bao giờ lạc lối cả. Vì khi anh tìm tòi, thì lạc vào đâu cũng thú vị. Cho dù lạc vào địa ngục, cũng là thấy được địa ngục. Vì anh luôn luôn đi tìm một cách vô tư trong sáng. Cái học nguy hiểm nhất là đi theo đuôi người khác, hoặc lạc vào tiền tài danh vọng.

    Bắt chước thiên nhiên là để nắm qui luật thiên nhiên. Và từ đó sáng tạo ra một cái khác mạnh mẽ hơn thiên nhiên. Trước kia người ta làm cánh như con chim cũng bay được một ít. Nhưng đấy chỉ là cái vỏ bề ngoài, không có lực bay nội tại. Do đó còn thua một con chim chích nữa. Cũng bắt chước chim và thiên nhiên, người ta làm ra máy bay, tên lửa. Việc bắt chước ấy là một tiến bộ khác hẳn.

    Mỗi bức tranh là một cơ thể sống. Nó có cuộc sống riêng của nó. Nó sẽ tác động đến người xem khác nếu họ có sự đồng cảm.

    Hỏi: Về cách đi trong học tập và sáng tác thì phải vẽ chính xác rồi mới tìm tòi?

    Đáp: Đặt vấn đề như vậy là đúng, nhưng không nên quá cứng. Những bước chuyển lớn, phải tự mình quyết định. Vì mình biết mình rõ nhất.

    Với trừu tượng, chữ Hán là một thứ trừu tượng. Người Á Đông đi thẳng vào trừu tượng, và là người đi trước.


    19.09.1979

    Công của nghệ sĩ là rửa mắt cho công chúng. Cho công chúng nhìn sáng hơn, rõ hơn, và mới hơn. Muốn vậy nghệ sĩ phải có con mắt mới, cái đầu mới. Một quan niệm, một đầu óc quá cổ điển không có lợi cho sáng tác.

    Nghệ sĩ dùng qui luật nhỏ của riêng mình để mò mẫm tìm qui luật lớn.

    Với chất liệu sơn mài, hoặc chất liệu khác cũng vậy, không được bắt nó phải theo mình, mà phải tôn trọng chất liệu, hiểu nó và nương theo nó mà điều khiển.

    Trên một tấm vóc (6), một tấm tole (7), hoặc một tờ giấy, nghệ sĩ được tự do tuyệt đối, không có tự do vì nghệ sĩ tự trói mình bằng những thành kiến quy tắc nào đấy.

    Hỏi: Nên sử dụng kỹ thuật trong sáng tác như thế nào?

    Đáp: Giải quyết kỹ thuật là giải quyết đi đến hoàn chỉnh, thỏa mãn về mọi mặt trên bức tranh của mình. Chưa thỏa mãn thì còn phải tìm, phải làm tiếp.

    Tác phẩm nghệ thuật cũng như mặt trăng. Trên sông, hồ, cũng soi bóng trăng. Trên chén nước, cũng soi bóng trăng.

    Hỏi: Hội họa là gì?

    Đáp: Hội họa là nghệ thuật tạo hình. Cái gốc của nó là tạo hình. Tranh trừu tượng cũng là tạo hình. Hình rất đa dạng. Một nét, một phẩy cũng là hình. Màu sắc và hình không nhất thiết gắn với nhau như phái Ấn tượng đã vẽ.

    Chữ Hán là một dạng tranh trừu tượng. Từ cái hình gần với thực tế, nó được tinh giản thành những tín hiệu.

    Tôi đã đọc bản dịch thơ Tô Đông Pha viết: “không muốn vẽ cỏ cây, hoa lá, hoặc người, vì những cái cụ thể ấy trói buộc cảm xúc.” Nhưng tìm bản chính để đọc, thì không thấy.

    Tranh phong tục địa phương hoặc phong cảnh cản trở nghệ sĩ truyền cảm xúc đến những người xem ở các nước khác (8).

    Trong nghệ thuật không nên cố ý. Có hai câu thơ:
    “Cố ý trồng hoa không nở
    Vô tình cắm liễu liễu sum xuê” (9)
    Nói chung là “sắm xe đạp của riêng mình (10) cho tốt để đi chơi.”

    Chân, Thiện, Mỹ là một, không có đầu có cuối. Mọi cái gì đạt đến tuyệt đối đều có những thứ ấy.


    29.04.1980

    Nghệ thuật là phương tiện để nâng con người mình ngày càng tốt hơn.

    Nhật vẽ tranh trừu tượng ngang hàng với Âu Châu. Họ vẽ bằng sơn dầu.

    Hỏi: Năm 1960, bác sang Nhật mua vật liệu sơn mài. Bác thấy người Nhật họ vẽ sơn mài như thế nào?

    Đáp: Không có gì đặc biệt.

    Hỏi: Vì sao Nhật là nước có truyền thống vẽ sơn mài lâu đời, họ có những tranh sơn mài cổ nghệ thuật rất cao, mà lại không sử dụng nó trong nghệ thuật hiện đại?

    Đáp: Có lẽ do thành kiến (11).

    Bắt đầu vẽ sơn mài là đã vẽ trừu tượng rồi. Vì nó không thực như ngoài đời. Họa sĩ sơn mài nhìn vào tâm bên trong, chứ không nhìn vào cái vỏ bên ngoài của sự vật.

    Sở dĩ sơn mài ngả về vàng son, vì sơn mài ngả về âm nhiều hơn, như các màu trong không gian đình chùa, cung điện.

    Sơn mài vẽ nhiều vì càng vẽ càng “nghiện.” Mà mỗi ngày lại càng “nghiện” nặng hơn. Và điều ấy thì không có chất liệu nào có thể thay thế được.

    Vẽ là một loại hình sinh hoạt đặc biệt, khác với mọi cái thông thường, nói là giàu rồi mới vẽ là không phải.

    Tranh sơn mài có kỹ thuật riêng. Vẽ sơn mài mà nhìn bằng thói quen của sơn dầu là không được.

    Sơn mài Việt Nam là kỹ thuật mới mẻ. Nó có cách giải quyết riêng, cách vẽ riêng của sơn mài.
    Không nên lấy chất liệu này để phác thảo chất liệu kia. Vẽ lụa nhiều, sẽ tạo thói quen làm việc không tốt. Trong học tập, sáng tác, nếu “khéo quá” thì chậm tiến bộ.

    Họa sĩ không làm việc để minh họa triết gia nào. Nghệ sĩ lúc sáng tác có những suy nghĩ riêng. Không nên bận tâm về việc giải thích hoặc mổ xẻ sáng tác như các nhà văn, nhà phê bình.

    Một họa sĩ nếu không hiểu, không vẽ được sơn dầu, thì cũng không thể hiểu, không thể vẽ được sơn mài.


    01.08.1980

    Vì tôi làm việc bị lỗi lầm nhiều nên mới tiến bộ. Còn vẽ khéo quá, thì chậm phát triển.

    Nếu không có cụ I (12) và bác phó Thành thì cũng không có sơn mài của tôi.

    Công đức của cụ I lớn lắm.

    Ngày xưa khi thấy tôi làm sơn mài, cụ I là họa sĩ sơn dầu không sao hiểu được vấn đề “Thời gian” trong cách vẽ sơn mài. Cụ rất thích sơn mài, rất muốn vẽ thử, nhưng cứ mỗi lần cụ nhìn thấy sơn ta nó lại “ăn” (13) cụ, nên đành phải thôi.

    Mỗi bức tranh sơn mài, là tự mình đề ra một bài học để giải quyết: nét, độ chuyển của nét, thay đổi màu nền, đen trên son, đỏ trên đen, đen trên bạc v.v…

    Hội họa gần với tôn giáo vì nó xuất phát từ tâm người ta. Nó không phải làm bằng óc hay bằng tay.

    Phải làm nhiều. Tập điều khiển sơn mài. Chú ý đến những biến chuyển đậm nhạt của chi tiết nhỏ trên tranh.

    Mỗi họa sĩ là một thế giới riêng biệt, không ai hiểu hết mình được.


    19.11.1980

    Làm nghệ thuật điều chính yếu nhất là thành thật. Cái hại nhất là giả với mình. Phải làm việc nghiêm túc, có khi đến khắc nghiệt với chính mình. Làm hàng trăm cái hỏng để chỉ lấy nửa cái được, hoặc một cái được. Người nghệ sĩ không bao giờ tự thỏa mãn.

    Chất liệu chiếm một nửa người nghệ sĩ. Phải yêu chất liệu, như yêu vợ mình, thì mới có con là tác phẩm. Mỗi chất liệu có đặc điểm riêng. Phải nắm được tính chất riêng của nó. Ví dụ: độ dày mỏng của sơn dầu. Với sơn mài thì lại yêu cầu phẳng, độ bóng, hoặc bằng bất kỳ cách nào, miễn là đạt được hiệu quả nghệ thuật. Khi có điều gì chưa đạt, người vẽ áy náy, tìm cách khắc phục. Cho đến khi tạm thỏa mãn, hoặc thỏa mãn với bức tranh ấy.

    Giữa phác thảo và tác phẩm là quá trình liền một mạch. Phác thảo chỉ là sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho tác phẩm. Ngoài ra, còn phải tính bước thực hiện để cho đạt hiệu quả. Hội họa là một phương pháp thiền.

    Có người bảo “ông đã hòa cảm xúc tâm hồn của ông vào trong tranh.” Họ coi tâm hồn là một chất gì đó sền sệt, có thể đem nghiền trộn vào màu, rồi bôi lên tranh!

    Chính vì họa sĩ muốn biết và thấy cái tâm mình, nên mới tìm tòi làm việc. Vì không biết nên mới vẽ.

    Đối với hội họa trừu tượng, cũng không nên phân biệt với các môn phái khác. Nó cũng chỉ là phương tiện để họa sĩ tìm cái thật. Hội họa trừu tượng khó là vì họa sĩ không có chỗ dựa vào mẫu thực. Từng chấm, từng nét trong tranh trừu tượng cũng có hình riêng và là một với toàn thể tranh. Chi tiết cũng như những giọt sương. Nhưng mỗi giọt đều soi ánh mặt trời. Mọi chi tiết trong tranh đều chịu một sự kiểm soát ngang nhau.

    Pollock (14) vẽ trừu tượng là ông “lên đồng,” nhập thể, tự mình là một với bức tranh. Mọi cảm xúc cuộc sống đều hiện lên đấy.

    Học vẽ giống như người đi xe đạp, mới lên thì chuệnh choạng, nghiêng ngả, sau đó lấy lại được thăng bằng và cứ thế đạp thẳng đi được.

    Vẽ là tự mình làm việc, tự mình khám phá, rút kinh nghiệm. Không phải cứ vẽ ngoằng, ngoằng, là được. Mà mỗi nét, mỗi hình, đều suy nghĩ để đạt hiệu quả, tưởng như “vô tâm,” tự nhiên như một hơi thở.

    Những tranh thấy như đơn giản của Nhật, là cả một sự công phu mới đạt được. Hoặc ví như có người không biết uống trà theo “Trà Đạo” của Nhật, thì cho là nhạt. Cái nhạt ấy cũng phải luyện.

    Sự sai lầm cũng như thành công có giá trị ngang nhau. Vì nó đều có công dụng: thúc đẩy người nghệ sĩ đi tới.

    Đọc sách thì nên đọc thẳng vào bản gốc của các tác giả, tránh đọc những tác phẩm trung gian. Học hội họa, nên tránh đọc những bài viết về hội họa của các nhà phê bình.

    Sáng tác, có lúc như trong mơ. Người vẽ không suy nghĩ, mà chỉ làm. Khi đã nghĩ mình vẽ trừu tượng, thì bức tranh lại không còn trừu tượng nữa. Lúc ấy sáng tác đã bị phân hai, giữa tranh và người vẽ tranh.

    Tất cả vẫn là tự nhiên. Khi vẽ để diễn tả ý nào đó, thì đã là minh họa. Mức cao hơn, là biết chú ý đến bố cục, bút pháp v.v…

    Trước thiên nhiên mình vẫn có thể rút ra cái trừu tượng. Có khi ở cái tướng cụ thể, mà người ta nhìn thấy trừu tượng.

    Vẽ cũng như ăn. Phải ăn nhiều món thì mới sành, mới biết nấu nướng. Mỗi bức tranh làm xong đều phải suy nghĩ để rút kinh nghiệm: những hiệu quả cố ý, những cái được, cái hỏng…

    Ngày xưa, thầy tôi thường nhắc: “Hãy coi chừng thói quen, sự quen tay.” Thói quen tốt còn được. Thói quen xấu, lâu ngày sẽ nguy hiểm, khó chữa. Hồi xưa thầy tôi đã hết lòng với tôi.

    Khi Nhật chiếm Đông Dương, máy bay Đồng Minh ném bom Hà Nội. Hai thầy trò ngồi dưới hầm trú ẩn, cụ I nói với tôi: “Chiến tranh như thế này, thì tôi đành phải từ bỏ Giấc Mộng Lớn của mình thôi.”


    26.02.1981

    Tôi không dám phê bình. Nếu không tôi đã chẳng là tôi. Cái chính ở người vẽ thấy “ngon” hay không? Vì vẽ là vẽ cho mình, chứ không phải để bán, hay để triển lãm. Mọi sự phải hỏi mình.

    Tranh là “phương tiện,” như “ngón tay chỉ mặt trăng” (15) của Phật. Có nhiều người không thấy trăng mà vẫn chỉ, chỉ lung tung.

    Phải thay đổi phương tiện để “đầu óc luôn luôn mới.”

    Trước một bức tranh chuẩn bị vẽ, phải tĩnh tâm và “xua mọi rác rưởi” (những cái nhớ về tranh người khác đã vẽ và những tình cảm đa tạp) rồi mới vẽ được.

    Khi mình “vô ngã” thì lúc ấy nghệ thuật mới bắt đầu. Không phải Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Xuân Việt v.v… mà đấy là sơn sống cuộc sống của nó. Cũng như cây cối trong thiên nhiên, nó thích nghi và sinh trưởng theo điều kiện tự nhiên của nó, không bắt ép được. Cái gì cũng có tuần tự. Không thể vội. Không thể đốt cháy giai đoạn được.

    Hỏi: Vẽ trừu tượng có phá mất hình thực hay làm hình thực yếu đi?

    Đáp: Sợ vẽ trừu tượng sẽ ảnh hưởng đến hình thực? Sẽ có ảnh hưởng. Nhưng cũng như món ăn. Ăn vào sẽ tiêu hóa. Mình không thể trực tiếp thấy nó tiêu hóa như thế nào.

    Ngày xưa, Hokusai vẽ một bức tranh, lấy guốc dẫm lên, nhổ nước vào tranh, cũng thành hội họa. Có cái “khí” hội họa thì ngậm màu nhổ vào tranh cũng ra mặt trời. Chứ không phải ở hoa tay.

    “Ngón tay chỉ trăng” là phương tiện. Không có nó, có khi dùng cây chổi cũng được.

    “Cố ý trồng hoa hoa tàn úa
    Vô tình cắm liễu liễu đơm bông”

    Có người vẽ tranh vui: trồng một cây non, sau lấy một cây que cắm cho dựa, kết quả cây thì héo, mà que thì lại mọc lá hoa, hội họa cũng vậy.

    Hỏi: Nho giáo nói gốc ở “nhân.” Vậy gốc của người nghệ sĩ cũng là “nhân”?

    Đáp: Phải. Vì họa sĩ cũng là người, nhưng không phải con người bằng xương thịt.

    Hỏi: Triết Đông và triết Tây khác nhau như thế nào?

    Đáp: Như cơm và bánh mì.

    Vẽ trừu tượng như người ta lên mặt trăng. Phải chuẩn bị bình dưỡng khí như thế nào, trên ấy nó khác. Và rồi đất đá trên ấy cũng vẫn là đất đá.

    Luyện tập từ những tranh nhỏ, cũng như luyện viết chữ cho chân phương, sau đó mới có thể viết những đại tự. Và cũng phải biết tin ở mình.


    10.07.1981

    Hồi xưa tôi vẽ tranh trừu tượng, xé giấy ra, rồi lắc xem sự thay đổi. Như thầy bói xem sự thay đổi của con bài, rồi họ dùng sự liên hệ riêng của mình với thế giới siêu hình mà phán đoán.

    Hỏi: Dùng tay chỉ mặt trăng thì Phật mới chỉ được. Nếu không phải là Phật thì sao?

    Đáp: Đấy là một ví dụ, còn có thể lấy ví dụ khác như: Nghệ thuật là phương tiện để mình đi vào thế giới chưa từng biết đến.

    Mỗi tác phẩm là phương tiện đã bỏ lại. Người ta thường không thể sáng tạo được phương tiện nên mua về dùng.

    Sự lầm lẫn phương tiện và cứu cánh dẫn người ta đến sự sai lạc rất tai hại.

    Khi sáng tác, cũng như người làm xiếc, đu đi, đu lại, đến một nhịp nào đó thì buông tay. Lúc đầu tập bằng cách có bảo hiểm. Khi thuần thục thì không cần sự bảo hiểm nữa.

    Khi vẽ sơn mài, có thể chuẩn bị ra giấy trước. Bắt tay vào tranh thì dùng sơn vẽ. Cũng như không thể dịch hết cái đẹp của thanh, sắc thơ, từ ngôn ngữ này ra ngôn ngữ khác.

    Ta không “dịch” tranh từ giấy ra sơn mài. Vì mỗi chất liệu có đặc tính và cuộc sống riêng.

    Sáng tác như sinh đẻ. Nếu không ham muốn thì không thể có tác phẩm.

    Đi sâu vào một ngành thì có thể hiểu được ngành khác. Triết học là cái gốc, từ đây có thể hiểu cái khác. Đọc kinh rất khó, phải có người hướng dẫn đúng đắn thì may ra mới hiểu được.

    Phải hiểu rõ bản chất của sơn thì may ra mới có thể điều khiển được nó.


    26.09.1981

    Tranh sơn mài để càng lâu càng tốt. Khi mài và đánh bóng sơn, vàng bạc không bị đi mất.
    Sơn cũng có cuộc sống riêng của nó: cũng trẻ, già, chết (16). Vẽ sơn mài có cái lý riêng của sơn mài.

    Khi vẽ là lúc mơ, lúc tỉnh, lúc ngất đi. Không ai vẽ lại giấc mơ.

    Ý định của một bức tranh biến chuyển không lường trước được. Dù thế nào cũng giữ cho được chí ban đầu. Cũng như cuộc sống con người, có nhiều cái không định trước được. Tranh không có ý gì cả.

    Vẽ sơn mài khó, nên phải tập cái khó. Người nghệ sĩ không được dễ dãi, nên gặp việc khó, càng tốt. Đó là cách thử thách ý chí của mình.

    Cũng như lội bùn và leo núi, các chất liệu khác so với sơn mài, cũng vậy. Có biết khổ, mới biết sướng. Có biết xấu mới biết đẹp.

    Trong những tranh trừu tượng, phải biết chọn ra những chỗ đẹp để phát triển. Cũng như người nấu ăn phải biết vị thức ăn của mình nấu.

    Tranh không phải chỉ có hai chiều, mà còn có chiều sâu nữa, chiều sâu của tác giả.

    Hồi xưa thời còn đi học, có một lần tôi làm phác thảo sơn mài mãi không được. Mỗi ngày cụ I vào lớp nhìn thấy bài lại lắc đầu. (Cụ I dạy vẽ rất ít nói, thường chỉ “gật” và “lắc” rồi chỉ vào chỗ được hay chưa được trên tranh). Sau một tuần làm bài cụ hỏi tôi: “Vẽ cảnh Hòn Gai đấy hả?” Vì trời đen, đất đen. Lúc ấy giống trong Thiền nói “Ngộ.” Tôi tự hỏi: “Sao ngói đỏ, tường trắng, mà trời đen, đất đen?” Và tôi chợt hiểu ra: sơn mài có cái “lý” riêng của nó. Sơn mài khác hẳn sơn dầu.

    Có làm sơn mài mới hiểu “matière” (1). Trước tôi cứ nghĩ “matière” là vẽ quả táo, phải có chất như quả táo thực. Chất, không phải chất của vật. Làm tranh với các chất liệu khác đều tốt, nếu mình coi nó là bài tập.

    Những người giỏi về kỹ thuật thường ít óc sáng tạo. Vì óc sáng tạo là cái gì mềm yếu, non nớt. Khi nó bị dày đặc, bị rắn lại, thì sẽ khô cứng và chết (18).

    Trong văn học nghệ thuật nói chung, hội họa luôn luôn đi trước. Ví dụ họa sĩ sáng tác ra chiếc áo dài, rồi người ta mới làm văn làm thơ, làm bài hát về chiếc áo dài… (19)

    Chất liệu hội họa là vật chất. Nghệ sĩ phải biến nó thành nghệ thuật, thành chính linh hồn mình.
    Tập phân biệt các độ đen, độ son. Mỗi bức tranh là một bài tập. Phải biết yêu và sung sướng say mê những khó khăn lúc làm tranh. Không phải chỉ yêu tác phẩm đã hoàn thành.

    Cách làm nhiều tranh sơn mài cùng một lúc cũng được. Tùy theo mỗi người, có người dễ, có người khó. Cũng như những diễn viên làm xiếc, họ có thể cho cùng quay mười chiếc đĩa trên các đầu que.

    Mỗi tranh của tôi chỉ là bài tập tôi tự đặt cho mình. Nếu nói ra như vậy có lẽ họ sẽ không mua.
    Người mua tranh, phần nhiều chỉ là mua một chữ ký đã nổi tiếng.

    Mọi sự ở trong tác phẩm, chỉ một mình người đẻ ra tác phẩm biết.


    09.10.1981

    Mỗi vật đều có cái lý của vật ấy.

    Bề mặt, phần ngọn của nghệ thuật, cũng như thiên nhiên, có muôn ngàn thứ. Vậy cái chính yếu: cần phải thấy cái “lý” bên trong.

    Dùng vỏ trứng, phải có sáng tạo, nếu chỉ để thay màu trắng bằng trứng, thì không có vấn đề gì đặc biệt cả.

    Vẽ sơn mài có định trước, nhưng có những cái đẹp tự nhiên xuất hiện, thì phải biết giữ lại.


    11.12.1981

    Sơn mài, sơn dầu là hai thế giới khác hẳn nhau. Không thể lấy cái đẹp tạo hình bên này mà tạo hình bên kia. Không thể chắp vá mà được. Nó phải nguyên phiến. Nó phải là nó, không pha tạp.
    Nhanh chậm không thành vấn đề, bởi thời gian ở trong tâm ta. Có thể vẽ xuôi, vẽ ngược, đằng nào cũng được. Vì vẽ cũng như nét chữ của ta. Khi ta nhập thể, nó chính là ta, ta chính là nó. Khi ấy những sai sót vi tế nhất ta cũng phân biệt được. Như người chỉ huy một giàn nhạc giao hưởng có thể phân biệt được từng nốt nhỏ bị lạc điệu.

    Tranh phải bỏ hết ý đi. Vì cố ý làm là đã có một khoảng cách giữa ta và chất liệu. Mà việc cố gắng thể hiện ý lại tạo một khoảng cách lớn hơn nữa.

    Nhập thể cái toàn thể bao giờ cũng vậy, không phải ta chú ý đến cái nhỏ mà nó thành. Bao giờ cũng nhìn toàn bộ, nhìn cái lớn.

    Vẽ sơn mài mới hiểu được thời gian, hiểu cuộc sống. Sơn mài là phương tiện để ta sống và nó cũng là cứu cánh. Đến lúc nào đó hai cái nhập vào làm một.

    Cái gì là phương tiện thì cái ấy không thể là cứu cánh. (20)

    Sống đúng, sống đủ, thì khi ta chết đi ta thấy mình đã làm đúng, làm đủ, không để uổng phí cuộc đời mình, ta có thể chết thanh thản.

    Cái sống và cái chết, cũng như màu trắng và màu đen. Hai cái ấy ẩn hiện, đan xen vào nhau, như đậm nhạt trong một bức tranh, nó là một.

    Không nên nói “Với hạnh phúc của người nghệ sĩ, thì hạnh phúc của người bình thường thấy thật đáng thương.”

    Nói như vậy là cao ngạo. Vì mình không thể biết trong tâm người ta như thế nào. Tốt hơn hết là sống giản dị. Vì cao ngạo lắm có ngày sa xuống thấp.

    Tôi không vẽ gì cả. Người khác vẽ, chất liệu tự nó vẽ.

    Cả đời tôi làm sơn mài, tôi chỉ muốn chứng minh cái dụng đối với hội họa của nó. Vì thấy chất liệu quí mà người ta bỏ, hoặc cười chê, khinh thường nó.

    Người ta phụ thuộc chất liệu, phương tiện nhiều lắm. Chất liệu sơn mài đẹp và có nhiều ngẫu nhiên. Nhưng cái khó, là mình, chứ không phải là vật. Mình khó tính, không thỏa mãn với cái làm được, bắt mình phải đi đến một cái khác khó khăn hơn.

    Về bố cục và vẽ bốn phía, không phải là mình quyết định hết đâu.

    Xước tranh, xem nghiêng bốn phía thì sẽ thấy hết. Đánh bóng, vết xước sẽ rõ hơn.

    Tôi có thể vẽ mãi.

    Cứ vẽ, không cần biết nó là hình gì, sẽ chỉnh sau.


    01.06.1982

    Nhà bác học cũng phải là một triết gia nhìn vấn đề mới lớn, nếu không chỉ là một nhà toán học bình thường.

    Bắt rất nhanh một thoáng nhỏ đến trong óc. Một bức tranh, toàn thể phải được vẽ một hơi. Các chi tiết cùng xuất hiện trên bất cứ điểm nào. Nếu cái mặt vẽ một tiếng, mà bàn tay vẽ năm phút, thì đấy là sự thiếu nhất quán.

    Kết thúc một bức tranh sơn mài là một cái chớp mắt cuối cùng. Cũng như nhạc sĩ sáng tác nghe toàn bộ bản nhạc trong chớp mắt, họa sĩ cũng vậy.

    Để luyện tập, phải tập vẽ nhanh.

    Hội họa chuyển động (Action Painting) của Pollock: một vệt sơn rơi thẳng, một vệt sơn vẩy ngang. Bụi sơn từng chấm nhỏ trong tranh, nếu soi kính hiển vi, cũng thấy sự sống vận động trong đó.

    Vẽ sơn dầu dễ gây cho họa sĩ bệnh hời hợt. Vẽ sơn mài luyện được sự bền bỉ, cùng sống với tranh.

    Nếu thành chuyên môn hóa về dessin, ký họa, phác thảo, thì không đi đến đâu cả, vì chất liệu nó chỉ có đến vậy. Chất liệu càng rộng thì càng khó.

    Trên tranh sơn mài hoặc sơn dầu, một nét vẽ ngập ngừng, một nét vẽ bay bổng, đều nhìn thấy.

    “Tự giác, giác tha.” Phải hiểu sâu hơn. Ta chỉ là một chấm nhỏ, tự giác là rất khó, còn giác tha, thì rộng lớn mênh mông.

    Đọc thẳng vào kinh Phật, ít quan tâm đến cái nền triết Ấn. Chỉ biết được cái nhà cũng khó rồi.
    Cách sống của đạo Phật chỉ đơn giản là làm việc gì cũng “lợi ta, lợi người.”
    Bớt đọc sách đi, loạn chữ. Đọc sách nhiều có hại. Đọc sách như uống rượu để kích thích sáng tạo.

    Không có bức tranh nào gọi là xong cả. Tất cả đều là phác thảo (21).

    Làm sơn mài bận bịu như nuôi con mọn vậy. Cả đời làm sơn mài cực nhọc như tù khổ sai chung thân. (22)


    Chú thích:

    (1) Họa sĩ Nguyễn Sáng cũng có lần nói với tôi: vẽ là phải thay đổi, tìm tòi nhiều hình thức “nhưng cái chính là đừng để mất phương hướng” (Tất cả chú thích phần ghi chép của họa sĩ Nguyễn Xuân Việt).
    (2) Họa sĩ Hòa Lan (1853-1890)
    (3) Họa sĩ Pháp (1848-1903)
    (4) Họa sĩ Pháp (1839-1906)
    (5) Khi tôi hỏi: “Bao giờ thì một họa sĩ thấy mình,” ông trả lời ngay “Thấy mình thì chết rồi còn gì!” Sau đó ông nói tiếp câu trên.
    (6) Gỗ bọc vải, bọc sơn để vẽ sơn mài.
    (7) Vải căng trên khung gỗ để vẽ sơn dầu.
    (8) Họa sĩ Mondrian cũng nói: “Nhân loại chỉ gặp nhau ở những gì phổ quát.”
    (9) Hai câu thơ này ở trong tác phẩm của Kim Dung, được ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần, có khác chữ.
    (10) Kỹ thuật riêng.
    (11) Họa sĩ Nguyễn Gia Trí bắt đầu say mê sơn mài khi thấy tranh của họa sĩ Trần Quang Trân. Và chính họa sĩ Trần Quang Trân đã có thời gian sang Nhật Bản nghiên cứu kỹ thuật sơn mài cổ truyền Nhật đem áp dụng vào sáng tác sơn mài hiện đại ở Việt Nam.
    (12) Họa sĩ Joseph Inguimberty hoặc gọi một cách thân mật là cụ I, như bác phó Thành (nghệ nhân sơn mài) mà Sinh viên trường CĐMT Đông Dương thường gọi.
    (13) Bị dị ứng, sưng mặt, tay chân…
    (14) Jackson Pollock, họa sĩ Mỹ (1912-1956)
    (15) Phật chỉ sự khác biệt giữa phương tiện và cứu cánh trong kinh “Thủ Lăng Nghiêm.”
    (16) Ông nói câu này để giải thích: vóc sơn mài phải để lâu cho sơn hết rút, mặt tranh sẽ phẳng mịn, không bị lên sớ gỗ.
    (17) Chất của tranh.
    (18) Có một lần, tôi đưa ông xem một tranh sơn mài của tôi đẹp, mà không sâu. Ông dẫn tôi ra vườn chỉ một giò phong lan mới ra hoa, cũng có cái đẹp như vậy: trơ, không hương. Ông im lặng, chỉ vào các đầu chùm rễ phong lan xanh non. Có lần ông chỉ vào một chi tiết đẹp ở tranh “Vườn Xuân Trung-Nam-Bắc” và nói: “giữ lấy cái mới” và ở một chỗ chưa đẹp thì ông nói: “Phải biết chịu đựng cái xấu.”
    (19) Thời Phục Hưng ở Ý Michelangelo (1475-1564) là một họa sĩ, nhà thơ, kiến trúc sư, kiêm điêu khắc gia nổi tiếng đã nói: “… ai suy nghĩ cẩn thận và hiểu biết rõ việc làm của con người sẽ thấy ngay rằng mọi công trình của con người không gì ngoài hội họa hoặc là một bộ phận của hội họa.”
    Ngày nay E. Powell (giám đốc bảo tàng quốc gia Mỹ) cũng nhận thấy: “Những yếu tố biểu hiện và những thủ pháp nghệ thuật đã làm cho mỹ thuật trở thành trung tâm kinh nghiệm của con người.”
    (20) Cách nói của ông cũng như tranh của ông luôn hướng đến một cái gì đó huyền diệu khó nắm bắt có khi tưởng như mâu thuẫn. Có lần ông nói bâng quơ “Từ cái mù mờ sinh ra cái không mù mờ.”
    (21) Ông không bao giờ thỏa mãn với một tác phẩm nào. Có lần tôi hỏi: “Bác có muốn xem tranh của bác còn lại trong thành phố hay không?” Ông đáp: “Không. Tôi không thích xem cái cũ, vì không chữa được.”
    Kết thúc tranh “Vườn Xuân Trung-Nam-Bắc” khổ 2m x 5m4, khi đã 82 tuổi, ông còn muốn tạo “matière” lan ra toàn bộ khung hoa văn của tranh. Để nó mờ đi, giảm chất trang trí, và tăng chất hội họa lên. Vì sức yếu ông phải dừng lại và để nguyên như hiện nay.
    (22) Thời gian sáng tác nhiều, ông phải dậy từ ba giờ sáng, uống trà đọc sách, sau đó chuẩn bị công việc cho thợ làm. (Khi việc nhiều xưởng vẽ có năm thợ). Buổi tối, ông sửa chữa tranh mà thợ đã thực hiện đến 10-11 giờ mới đi nghỉ.

    TUẦN THƠ 44: MONG MANH

    Nguyễn Lương Ba

    DỊU DÀNG NHƯ HƠI THỞ

    trước khi tôi xuống trên đôi

    chân trần của tôi trước khi

    tôi xuống cầu thang, không phải

    sự mệt mỏi hay rối

    loạn giấc ngủ mà tôi đã

    mang theo như chùm ớt chuông

    chớp nhoáng chín trong những chậu

    cây cuối mùa của chúng tôi

    cảm thấy căng thẳng sẵn sàng

    tôi đã nghe thấy giọng nói

    của một bài thơ thập niên

    năm mươi nói về tình yêu

    thương gọi chúng ta đến với

    những điều của thế giới này

    rõ ràng trong tai tôi đến

    nỗi tôi không thể nằm đó

    trong sự ấm áp bên trong

    của cuộc hôn nhân của mình

    ôm ấp, nâng niu một người

    phụ nữ thanh thản ở độ

    tuổi trung niên thay vào đó

    là âm thanh trên kính tiếng

    vải lanh sột soạt cơ thể

    đệm của tôi tất cả kết

    hợp lại để nói với tôi

    rằng chúng ta ở đây chúng

    ta ở đây những gì tôi

    nghe thấy là tiếng lật trang

    nhẹ nhàng tiếng tách trà xanh

    nóng hổi của tôi trên chiếc

    đĩa lớn của nó cạnh cứng

    của tâm trí tôi vẽ một

    đường thẳng không phải trên ròng

    rọc dây phơi giữ những tấm

    ga trải giường kêu cót két

    mà thay vào đó kéo dài

    như đường dây điện thoại vào

    cõi vĩnh hằng nơi đôi khi

    chúng ta đủ yên tĩnh hoặc

    ngủ với tâm trí đủ trống

    rỗng chúng ta có thể đến

    thăm tôi không cần gối của

    mình mặc dầu tôi luôn mang

    xuống cầu thang khi những …

    cơn bão cơ thể này đánh

    thức tôi thường hy vọng sẽ

    trở lại để ngủ đánh lừa

    bản thân bằng ánh đèn nhiệm

    vụ màu vàng tối nay có

    điều gì đó gọi tôi xuống

    cầu thang để đọc cuốn sách

    cũ trên giá sách của tôi

    từ thời đại học và nghĩ

    rằng nếu không có tiêu đề

    thì bài thơ sẽ không bao

    giờ ở trong tâm trí tôi .

    4/18/2025

    Ý Nhi 

    DẪU CHỈ LÀ CƠN MƯA

    Mưa ồn ào mùa hạ
    mưa dịu hiền mùa xuân
    tháng ba ngày mưa nhuần
    vòm hoa xoan tím ngát
    Đất cằn trong khô khát
    bỗng mát lành sau mưa
    cây lá xanh vườn trưa
    lại nồng nàn hơi thở
    Anh có còn luôn nhớ
    cái mùa mưa đầu tiên
    con suối nhỏ bên thềm
    bỗng cồn cào mùa lũ
    Anh có còn luôn nhớ
    mùa đông mưa trắng đồi
    hoa lau phơ phất gió
    dốc Dài và suối Ðôi
    Hay chỉ mình em thôi
    tháng năm dài vẫn nhớ
    như nhớ về đống lửa
    như nhớ về mặt trời
    chắc bền và rực rỡ
    thân gần và xa xôi
    Em chẳng dám quên đâu
    những gì mình đã có
    để làm nên ngọn lửa
    suốt cuộc đời hai ta
    dẫu chỉ là cơn mưa
    em làm sao quên được.

    (1976)

    Xuân Thủy

    EM Ở ĐÂU

    Lâu rồi không gặp em
    Em có khoẻ không không
    Em anh chết đã lâu
    Rồi em thế nào rồi

    Em còn sống hay đã
    Chết lâu rồi ở trong
    Anh anh phải tự hỏi
    Anh đi chứ anh không

    Nghe lời em nói yêu
    Anh mà bỏ em đi
    Rồi giờ anh nói lâu
    Rồi không gặp em em

    Có khoẻ không em còn
    Sống hay đã chết
    Hay như em vẫn nói
    Em cao số lắm chưa

    Chết được đâu nào là
    Là gan là thận bệnh
    Nền không tiêm chủng được
    Không như người ta vì

    Em là tình yêu … Em
    Ở ngoài biên giới xa
    Ngoài thế giới bủa vây
    Quanh anh vì em ở

    Trong anh nơi ngoài biên
    Giới xa không có gì
    Đã nói ngoài tình yêu
    Hoà bình hay chiến tranh

    #Covid 8/2021

    Trần Hoàng Vy

    SỰ THẬT HẠT SƯƠNG

    Những hạt sương đêm ỏng ẹo, ma mị
    lừa dối ngọn cỏ, mượn ánh sáng mặt
    trời khi ngày vừa mới chớm, óng a
    óng ánh, những chuỗi ngọc ảo ảnh giả

    tạo bởi con mắt trần gian mê muội
    vẽ đẹp của sương, chỉ có sự thật
    của tia nắng mới, dám chỉ ra rằng
    hạt sương lạnh tanh, sự thật nó là

    đứa con rơi ra từ trong hơi nước
    bám víu lấy cành cây, cọng cỏ, lá
    xanh để thay tên đổi họ, lên ngôi
    xưng là hạt sương lóng la, lóng

    lánh. Không dám nhìn sự thật của hạt
    nước, nên nắng phải tỏa hơi nóng bắt
    hạt sương trở về nguyên dạng dáng hình
    của nước, thấm vào đất mẹ hối cải

    để cỏ cứ lên xanh từ sự thật…


    Khế Iêm

    THE STORY OF YOUR LIFE

    Deaths that have never been real

    deaths they have never occurred

    like we have been born without

    origin and arrived here

    from the chaos momentarily

    stopped because life and death

    have been a story retold

    incidentally retold and

    is nothing more than a story

    that within a few moments

    has become old and after

    a few moments the story

    has been told and it is over

    after it is told returning

    to the teller so that other

    stories like those have not been

    told about life repeated

    that have never been real

    because we only exist

    temporarily in a

    life’s few moments and then

    return somewhere from where we

    came deaths that have never

    been real and you have just

    momentarily stopped

    a few moments. Thank you for

    coming into life and for

    telling the story of your life.


    CHUYỆN ĐỜI ANH


    Những cái chết chưa bao

    giờ có thật những cái

    chết chưa bao giờ xảy

    ra như chúng ta sinh

    ra không căn không cội

    và đến đây từ nơi

    hỗn mang dừng lại giây

    lâu bởi sống chết lâu

    nay chỉ là câu chuyện

    được kể lại kể lại

    kể lại tình cờ và

    chẳng qua mọi câu chuyện

    chỉ mới trong vài giây

    lâu mọi câu chuyện đã

    cũ sau vài giây lâu

    mọi chuyện kể kể xong

    là xong mọi chuyện kể

    kể xong trở về nơi

    đã kể để những chuyện

    kể khác kể lại những

    chuyện chưa kể như cuộc

    sống lặp lại lặp lại

    mà chưa một lần có

    thật vì chúng ta chỉ

    vật vờ trong đời có

    vài giây lâu rồi trở

    về nơi nào từ đó

    chúng ta đến đây những

    cái chết chưa bao giờ

    có thật và anh chỉ

    mới dừng lại trong vài

    giây lâu. Cám ơn anh

    đã đến với đời và

    kể xong câu chuyện đời

    anh.


    LA STORIA DELLA TUA VITA


    Morti che non sono mai state reali

    morti che non sono mai esistiti

    come se fossimo nati senza

    origine e siamo arrivati qui

    dal caos momentaneamente

    fermato perché la vita e la morte

    sono state una storia raccontata

    raccontata incidentalmente e

    non è altro che una storia

    che in pochi istanti

    è diventata vecchia e dopo

    pochi istanti la storia

    è stata raccontata ed è finita

    dopo che è stata raccontata tornando

    al narratore in modo che altre

    storie come quelle non siano state

    raccontate sulla vita ripetuta

    che non sono mai state reali

    perché noi esistiamo solo

    temporaneamente in pochi

    pochi istanti di vita e poi

    torniamo da qualche parte da dove veniamo

    morti che non sono mai

    state reali e tu hai solo

    momentaneamente fermato

    qualche istante. Grazie per

    essere venuto alla vita e per

    raccontare la storia della tua vita.

    Nhà thơ Lidia Chiarelli dịch.

    Báo Thơ số 16 số đặc biệt ngôn ngữ khác

    Nguyên Thu

    MONG MANH

    Rặng tàn rợp bóng xa trời
    Xa trong em mắt huyền thắp lửa
    Sáng trên đóa môi mềm mộc
    gió miên du lọn tóc huyền

    mềm như lụa và êm như màu nắng
    Đáy mặt hồ trong đựng đóa môi cười
    Em e thẹn ráng chiều êm ả
    Em chạm tay xoa lên mắt thương

    Tách bóng nước tìm mơ một chuỗi
    Níu ghì anh trong nỗi nhớ khuất xa
    Em, sóng nước hòa cùng chết đuối
    Mong manh
    cái chạm lặng mờ.

    Gò Vấp 5/6/2023