Như thế…Tôi đã đến với Tân hình thức.

    Bài dự thi “ Giải thơ Tân hình thức”

    Nguyễn Ngọc Trìu 

    Cái mới của thơ Tân hình thức Việt thật lạ ! Cái mới không xuất phát từ hình thức mà từ đòi hỏi của nội dung. Điều đó khiến tôi tò mò, khám phá và trải nghiệm. Ban đầu tôi lay hoay với vắt dòng, hì hục với lặp lại, mơ hồ với tính truyện,  ngỡ ngàng với ngôn ngữ đời thường (nhất là từ bỏ tu từ ). Quả là khác, khác rất xa  so với cách làm thơ gieo vần. Cứ viết, cứ viết rồi tôi cũng nhận rathêm : Cần phải bỏ thói quen biểu hiện cảm xúc trực tiếp; cần giấu cảm xúc của người viết đi, giấu kín sau câu chuyện và các chi tiết cấu thành câu chuyện.

    Cứ viết, rồi dần dà tôi cũng nhận ra tính truyện khiến cho Tân hình thức xích lại gần đời sống , đời thực (dẫu vẫn có sự tham gia của yếu tố ảo giác ). Tân hình thức không trở thành đánh đố người đọc như một số xu hướng làm mới thơ ca trong vài thập kỉ qua. Câu chuyện mà mỗi bài Tân hình thức mang  đến dễ nhớ và dễ bám sâu vào trí nhớ của người đọc.Tôi nghĩ, sức hấp dẫn của thơ Tân hình thức một phần lớn là đây, trong khi đó cái hay của thơ vần điệu thường ở từ, ở hình ảnh, ở nhịp điệu… đọng lại trong một cặp câu hoặc một khổ thơ. Tính truyện cũng là yếu tố góp một phần lớn làm nên khả năng hội nhập dễ dàng của Tân hình thức. Thơ vần điệu ít có khả năng này.

    Gần đây các nhà thơ lớn của thơ Tân hình thức cho rằng  một bài Tân hình thức có giá trị phải có ý tưởng mới lạ và nhạc tính. Con đường tắt… đã được chỉ ra. Rõ ràng, có thước đo khoa học hẳn hoi (ở một chừng mực nào đó) , không mơ màng  như xác định cái hay của một bài thơ  theo lối gieo vần. Ý tưởng mới lạ phải nhờ vào tài năng . Khó rồi…Ý tưởng mới lạ đến từ tính truyệnhay còn từ đâu nữa ? Thật không dễ trả lời. Nhà thơ  Inrasara dư thừa sức viết là vậy, thế mà, sau 18 bài tân hình thức, đành tạm chia tay với dòng thơ này, vì “ không đủ  ý tưởng mới ”.  Có nhạc tính, mà tính nhạc ở mỗi bài cần có nét riêng… Càng khó, càng khó để trở thành “ dân ca của thời hiện đại ” nói như nhà thơ Mai Văn Phấn.

    Cái khó của thơ Tân hình thức còn ở phía người đọc. Độc giả chưa quen với cách đọc một mạch từ đầu đến chữ cuối cùng, rồi mới đọc lại và tự ngắt theo ý của người đọc, từ đó sẽ  nhận ra đoạn giàu nhạc tính nhất trong bài. Từ lối ngưng nghỉ theo từng dòng thơ của thơ gieo vần đến cách đọc liền mạch vắt dòng liên tục của thơ Tân hình thức là sự chuyển đổi không phải một sớm một chiều.

    Thôi thì cứ viết và chờ, bài thơ hay vẫn đang ở phía trước kia mà!

    Có một điều rất cần chia sẻ, không hiểu sao từ khi đến với thơ THT,vài năm nay, tôi gần như không còn cảm hứng viết thơ gieo vần. Có lẽ nó là 2 hệ hình tư duy thơ khá xa nhau chăng …

    tháng 11/ 2020

     

    TUẦN THƠ 57: MƯA RƠI BÌNH MINH

    Tranh Ngọc Dũng
    Tranh Ngọc Dũng
    Thạch Tốt

    MƯA RƠI BÌNH MINH

    vào sáng sớm ngay trước
    bình minh, người yêu và
    người yêu thức dậy và
    uống một ngụm nước cô
    ấy hỏi anh yêu em
    hay chính anh hơn thực
    sự nói sự thật tuyệt
    đối anh ấy nói rằng
     
    không còn gì ở em
    nữa em như một viên
    hồng ngọc giơ lên ​​đón
    bình minh nó vẫn là
     
    một viên đá hay một
    thế giới làm bằng màu
    đỏ Nó không có sức
    đề kháng với ánh sáng
     
    mặt trời một con chim
    vô hình bay qua nhưng
    tạo ra một cái bóng
    nhanh cơ thể là gì
     
    cái bóng của một cái
    bóng của tình yêu của
    em mà bằng cách nào
    đó chứa đựng toàn bộ
     
    vũ trụ một người đàn
    ông ngủ say mặc dù
    có điều gì đó bùng
    cháy trong anh như mặt
     
    trời như một đường viền
    lộng lẫy được khâu dưới
    viền áo anh ấy trở
    mình dưới chăn bất kỳ
     
    hình ảnh nào cũng là
    lời nói dối một viên
    đá đỏ trong suốt có
    vị ngọt ngào em hôn
     
    một cái miệng xinh đẹp
    và một chiếc chìa khóa
    xoay trong ổ khóa nỗi
    sợ hãi của em một
     
    câu nói được nói ra
    trở nên sắc nét hơn
    một lần nữa hoa hồng
    đang xé toạc chiếc váy
     
    của mình những bông hoa
    xanh đã đến từ thế
    giới bên kia say sưa
    như làn gió thổi đến
     
    một điều ngu ngốc mới
    một lần nữa gần đỉnh
    núi những nét ngọt ngào
    của hoa hải quỳ xuất
     
    hiện hoa lục bình nói
    chuyện trang trọng với hoa
    nhài bình an cho bạn
    và bình an cho bạn
     
    chàng trai hãy đi dạo
    với tôi trên đồng cỏ
    này một lần nữa có
    những người theo đạo
     
    ở khắp mọi nơi nụ
    hoa e thẹn nhưng gió
    đã thổi cô ấy đột
    nhiên bạn tôi người bạn
     
    ở đây như nước trong
    suối như hoa sen trên
    mặt nước đừng lo lắng
    về việc lưu những bài
     
    hát này và nếu một
    trong những nhạc cụ của
    chúng ta bị hỏng thì
    cũng không sao chúng ta
     
    đã rơi vào nơi nơi
    mọi thứ đều là âm
    nhạc tiếng gảy đàn và
    tiếng sáo vươn lên bầu
     
    khí quyển và ngay cả
    khi toàn bộ cây đàn
    hạc của thế giới có
    cháy hết thì vẫn còn
     
    những nhạc cụ ẩn đang
    chơi nên ngọn nến nhấp
    nháy rồi tắt chúng ta
    có một mảnh đá lửa
     
    và một tia lửa nghệ
    thuật ca hát này là
    bọt biển những chuyển động
    duyên dáng đến từ một
     
    viên ngọc trai ở đâu
    đó dưới đáy đại dương
    những bài thơ vươn lên
    như những mảnh vụn và
     
    mép của gỗ trôi dạt
    dọc bãi biển muốn chúng
    bắt nguồn từ một gốc
    rễ chậm rãi và mạnh
     
    mẽ mà chúng ta không
    thể nhìn thấy hãy dừng
    những từ ngữ lại ngay
    bây giờ mở cửa sổ
    ở giữa lồng ngực bạn
    và để những tâm hồn
    bay vào và bay ra
    11.30.2025.

    MAI MỐT

    Tôi thức dậy và thấy
    mình vẫn ở đó căn
    phòng không đổi chỉ
    có chiếc quạt quay chậm
    Hơn như thể nó cũng
    mệt mỏi vì phải thức
    cùng tôi tôi nghĩ đến
    tiếng ve hôm qua nó
    ở đâu trong đêm nay
    và tôi nghĩ đến những
    âm thanh khác như tiếng
    của một người đã quên.
    11.2025

    KHU CHUNG CƯ ROYAL LANE VILLAGE

     
    Em là bài ca u
    buồn của buổi sáng, nghiêm
    túc và chậm rãi, em
    thon thả em ăn mặc,
    em xuống cầu thang trong
    bộ đồ công sở và
    lái xe đi, em trở
    thành người thông thái và
    quyền năng khiến cả ngày
    trở nên khả thi trên
    thế giới Nhưng em cũng
    hát bài ca đó trong
    đêm loạng choạng đi qua
    ngôi nhà đến giường của
    đứa trẻ, đến với cơ
    thể hồng ấm êm của
    người mẹ, để lại vị
    đắng cho em Và mãi
    mãi những đêm đó làm
    xáo trộn cỗ máy tinh
    tế của những ngày tháng
    khi nụ cười của mẹ
    hiện rõ trên gò má.
    11.6.25

    Nguyễn Lương Ba sưu tầm
     

    THƠ VĂN MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975:

    TẠP CHÍ VĂN SỐ 64(15/8/1966): TƯỞNG NIỆM BÍCH KHÊ

    ĐINH CƯỜNG: THU XÀ VÀ PHẦN MỘ BÍCH KHÊ

     
    Tôi đã đi thăm mộ Bích Khê với Thu An cháu gọi Bích Khê bằng cậu. Mùa hè năm 1963, tôi từ Huế vào Quảng Ngãi rồi về Thu Xà, nơi Bích Khê đã sinh ra, lớn lên và trở về nằm trong lòng đất vĩnh viễn ở đó. Thu Xà cách bến xe Quảng Ngãi 10 cây số. Với một con đường gồ ghề đá sỏi, hai bên là đồng lúa, rải rác có những trạm canh dân vệ, con đường còn mang nhiều dấu vết chiến tranh, nơi một ngã tư mà Tạ thu Thâu đã bị bắt, thời kỳ Việt Minh. Thu Xà là một quận lỵ gồm hai dãy phố cũ, phần đông là người Tàu đến ở buôn bán từ ngày trước, có những phố lầu hoang tàn bị bom thời kỳ 1945. Nhà Bích khê ở ngay phố, có một cổng dài đi vào. Tôi đến đó lúc trời nhá nhem tối. Chân đặt lên một sân trồng đầy hoa hồng, lòng bâng khuâng…tôi hỏi thăm bà Ngọc Sương, chị kế Bích Khê và Thu An vừa ở Sài Gòn ra. Lúc vào nhà tôi gặp ngay thân mẫu Bích Khê với đầu tóc bạc mướt, gương mặt phúc hậu. Bà sống cùng người con trưởng và con dâu trong căn nhà lâu đời đó. Tôi được kể căn nhà vẫn không có gì thay đổi. Nhà làm kiểu ba gian, một chái. Gian bên trái là phòng Bích Khê, gian giữa đặt bàn thờ, có ảnh Bích Khê, tôi đến thắp hương. Đêm đó tôi nằm trên chiếc sập cao nơi Bích Khê đã nằm ngày trước, với ngọn đèn dầu hỏa tôi mơ màng bóng dáng phảng phất của một người tài hoa bạc mệnh: Bích Khê. Gian phòng ẩm lạnh, trên chiếc sập gỗ trơn đó Bích Khê đã trở về nằm bệnh sau bao năm giang hồ. Sáng ở đầu sông nhớ núi. Đêm nằm trong núi nhớ sông. Sức khỏe đã hao mòn dần. Suốt ngày thơ thẩn, ướt ao gặp lại một người quen:
    “Gió về mang cả mùi lăng tẩm / Buồn cắt lên đền những miếng đen./ Người viễn khách, lòng sầu vạn cổ /.Dặm mòn muốn gặp một người quen” .Thời gian này thỉnh thoảng có Quách Tấn gửi thơ cho Bích Khê đọc rồi họa lại, có lần Chế Lan Viên về thăm, Bích Khê mừng ứa nước mắt. .Đáng kể nhất là lần người yêu trở lại Thu Xà, mặc dầu nàng đã có chồng hai con, đó là nguồn an ủi cuối cùng cho những ngày tuyệt vọng của Bích Khê. Nh tên người yêu độc nhất của Bích Khê, vì trắc trở gia đình không cưới nhau được, mặc dầu tình yêu vẫn nồng cháy giữa hai người. Ở lại Thu Xà chỉ vài hôm Nh trở lại Sài-gòn, để lại cho Bích Khê một hồn đau xác gầy. Bích Khê tiễn nàng ra cổng với cảm giác vĩnh biệt. Cách mười hôm sau Bích Khê nhận được cam của Nh từ Sài-gòn gửi về và cũng từ đó Bích Khê không bao giờ còn trông thấy bóng dáng người tình nữa. .Cơn ho lại nặng thêm. Gia đình chạy thuốc thang đầy đủ cho đến phút cuối cùng. Nhưng bệnh tình đã đến chỗ tuyệt vọng. Bích Khê biết trước cái chết của mình nên vẫn điềm nhiên nói chuyện và an ủi gia đình. Trước hai tháng từ giả cõi đời, Bích Khê cứ tụng niệm”Di Lạc Tôn Phật” và tin tưởng ngày nhắm mắt sẽ có Phật đến rước. Một tối sau khi ăn cháo xong, Bích Khê gọi mẹ lên ngồi một bên nói cho mẹ biết là còn ba ngày nữa, nhằm ngày rằm Bích Khê sẽ chết và nói cho người nhà xuống Chùa Phú Thọ, xin phép mời một vị sư bạn cũ của Bích Khê lên ở với Bích Khê ba ngày đêm để tụng kinh cho chàng nghe. Đến đêm thứ ba thì Bích Khê thở hơi cuối cùng. Đúng như lời Bích Khê nói. Lúc ấy là mười hai giờ khuya, ngày 15 tháng Chạp năm Ất Dậu(tức ngày 17-1-1946). Cái chết đến với Bích Khê nhẹ nhàng quá nhưng cũng chua xót làm sao khiến ta nghĩ đến bệnh lao, nghĩ đến tuổi ba mươi phải lìa bỏ cõi đời. Nghĩ đến những văn thi sĩ cùng chung số phận. Keats sau mấy năm khắc khoải với vi trùng lao đã từ trần tại La Mã, Thạch Lam, Vũ trọng Phụng đã chết trong sự cơ hàn cay cực giữa Hà Nội. .Khi mùa xuân tới, khi cảnh vật xung quanh hồi sinh lại thì Bích Khê qua đời. Bích Khê qua đời giữa mùa xuân loạn ly, ngoài gia đình chả có một người bạn về đưa đám. . Rồi từ đó nắm mộ vẫn bằng đất, nằm thật buồn qua những năm tháng chiến tranh mà sau mười bảy năm, tôi được dịp về thăm được nằm lại trong căn phòng hoang vắng của Bích Khê mà cửa sổ nhìn ra một sân hoa hồng, những cánh hồng mà tôi và Anne đã hái đến cắm trước mộ thi sĩ để rồi những que nhang chưa cháy hết, những trẻ chăn bò đã đến lấy mang đi. Đã ba năm qua, từ ngày về Thu Xà, thời kỳ xe đò còn lưu thông suốt trên Quốc -lộ số 1, cho đến bây giờ bao nhiêu biến chuyển của thời cuộc. Chiến tranh lại tàn khốc hơn. Quốc lộ số 1 bị nghẽn. Quảng Ngãi là vùng có những trận đánh lớn và gay go nhất hiện nay. Gia đình Bích Khê còn lại bà mẹ năm nay đã 85 tuổi cùng người anh trưởng đã dời khỏi căn nhà thân yêu ở Thu Xà để tản cư lên tỉnh. Thu Xà đã trở nên vùng đất bất an mà bom đạn đã thả xuống quanh đó. Làm sao có lại buổi chiều dưới xóm dừa Cổ Lũy, một bến sông qua Phú Thọ, những mảng đá to nhìn xuống biển xanh. Tôi đã đứng trên cao đó nhìn về núi Thiên Ấn, núi Thiên Bút và dòng sông Trà Khúc uốn mình quanh bãi cát chạy dài. .Và phần mộ Bích Khê nằm lại thật đìu hiu khốc thảm cạnh hàng tre già cao vút, giữa một mảnh đất của hội quán mặc cho chiến tranh tràn về. Những con chim lạ có còn về đậu trên mồ Bích Khê và đứa trẻ với đàn bò mà tôi đã gặp ngày thăm mộ có phải lùa bò về thành phố như nhạc Sơn: Đàn bò vào thành phố, reo buồn tiếng nhạc chuông… Tôi nghĩ đến mộ Hàn Mặc Tử được xây trên Ghềnh Ráng cao nhờ sự giúp đỡ của gia đình và bạn bè. Chiều mây về phủ trắng trên tượng Đức Mẹ và nghĩ đến một vùng mộ trắng trồng toàn hoa Violettes của thi sĩ Anh John Keats, trên bia không đề tên mà chỉ đề: “Here lies one whose name was writ in water” ( Nơi đây an nghỉ một người mà tên đã ghi trên mặt nước) để rồi ước mong mộ Bích Khê sớm được dời đi xây trên ngọn núi cao của tỉnh Quảng Ngãi. Để tránh những giao thông hào, những làn mưa đạn ngày đêm tràn xuống phần đất khô cằn đó .
     
    THƠ BÍCH KHÊ

    LÀNG EM

    Nơi đây làng cũ buồn thu quạnh
    Anh có khi nào trở lại chưa?
    Ngày đi chậm lắm, giòng sông biếc
    Hừng sáng trong trời sợi sợi mưa
    Nơi đây thành phố đời ngưng mạch
    Mấy nàng lai khách vẫn buồn mơ
    Đường lên hội quán sương khuya xuống
    Đâu mấy chàng trai rõi nhớ hồ?
    Anh có khi nào còn trở lại
    Chờ lúc hoàng hôn trăng đã lên
    Tìm ngõ nhà em anh sẽ thấy
    Khóm lan thơm nặng khí ưu phiền
    Là lúc đêm về trên mái ngói
    Những nhành nhãn muộn cánh dơi bay
    Em đang nổi bệnh trong phòng vắng
    Tình dậm theo trăng sáng sáng đầy…

    HÀ NỘI VÀ HOÀNG ANH TUẤN VÀ…

    Nguyễn Xuân Hoàng
     
    Sáng nay San Jose mưa. Mưa nhỏ thôi.
    Những ngày đầu tháng Mười, mùa Thu miền Bắc Cali không lạnh. Một người bạn quen từ Quận Cam vừa gửi tặng tôi một CD trong đó có ca khúc Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội. Đây là một bài hát khi mới ra đời, ban hợp ca Thăng Long đã mang đến cho người nghe nhiều ấn tượng. Bài hát đã lâu tôi không nghe. Nhưng lời của ca khúc tôi vẫn nhớ là do Hoàng Anh Tuấn viết cho nhạc của Phạm Đình Chương. Chúng tôi vẫn gọi anh là thi sĩ của Hà Nội. Hà Nội yêu, anh vẫn yêu muốn khóc/ Mấy chục năm, xa đến mấy nghìn năm. Đó là hai câu thơ đã ở lại rất lâu trong tôi.
    Tôi nhớ lần cuối gặp anh năm 2006 trong nhà dưỡng lão Mission De La Casa ở San Jose. Hôm đó, anh ngồi xe lăn, cười hỏi tôi. “Đi đâu?” “Thì đi thăm anh, chứ đi đâu!” “Này cậu, thế mà đã hai mươi năm rồi đấy!” Hoàng Anh Tuấn không nhớ những lần gặp nhau gần đây, trước ngày anh vào Viện Dưỡng Lão, mà chỉ nhớ chuyện của 20 năm trước, những ngày Đà Lạt , Sài Gòn… Đúng, năm 1986 tôi gặp anh ở Virginia khi vừa đặt chân xuống vùng đất tự do. Hôm đó, uống chưa hết ly rượu, tôi đọc lại hai câu thơ trên và trêu anh:“Trời ơi, tại sao yêu mà yêu muốn khóc là thế nào?” Hồi đó anh chỉ cười, không trả lời. Bây giờ chính anh nhắc lại, và nói, “Nghe đây, yêu mà không lấy được thì khóc chứ sao? Cậu vớ vẩn bỏ mẹ!” Và chúng tôi đã cười với nhau.Tôi vớ vẩn thật, đi thăm một người nằm trong nhà dưỡng lão mà trêu chọc, y như ngày ngồi bên anh trong một quán ăn ở Virginia giữa những chai bia.
    Cái chất gì của Hà Nội khiến anh yêu mê thành phố ấy đến thế? Tôi không biết. Nhưng tôi biết một điều: nhắc đến Hoàng Anh Tuấn là nhắc đến Hà Nội và nhắc đến Hà Nội cũng là nhắc đến Hoàng Anh Tuấn. Mặc dù, năm 1949, mới 17 tuổi, Hoàng Anh Tuấn đã rời Hà Nội đi Pháp du học. Paris, Sài Gòn, Dalat, rồi lại Paris, Virginia, San Jose … và bao thành phố khác.
    Chưa một lần trở lại Hà Nội, thế nhưng, Hà Nội lúc nào cũng nguyên vẹn trong anh. Hà Nội tràn ngập trong những trang chữ của anh. Như thể sau năm 1949, ngày anh bỏ Hà Nội ra đi cho đến năm mươi năm sau, Hà Nội vẫn còn đập nhịp trong trái tim anh.
    Tôi kiếm hồn tôi xưa Hà Nội
    Thuở còn trong vắt gió vào Thu
    Thoảng nghe ngọt tiếng cô hàng cốm
    Chênh vênh đâu cuối phố Sinh Từ
    Xa Hà Nội, Hoàng Anh Tuấn mang theo Ga Hàng Cỏ những sáng sớm ngái ngủ, Hồ Tây những buổi chiều tà, mang theo Hàng Đường, Hàng Gai, mang theo năm cửa ô… Anh không bứt được Hà Nội ra khỏi ký ức mình, không thể quên được những “hoa sấu lẳng lơ” (mà hoa sấu sao lại lẳng lơ nhỉ?) … Trong văn học Việt Nam, có lẽ không một thi sĩ nào dành cho thơ nhiều Hà Nội như Hoàng Anh Tuấn.
    Khi Mai Thảo viết Đêm Giã Từ Hà Nội, anh đã chia tay Hà Nội thật sự. Rồi Tháng Giêng Cỏ Non, Để Tưởng Nhớ Mùi Hương, Mười Đêm Ngà Ngọc… và sau cùng với Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền, Hà Nội có vẻ như đã ra khỏi anh.Khi Thanh Tâm Tuyền viết Bếp Lửa sau ngày vào Nam, rồi Tôi Không Còn Cô Độc, Một Chủ Nhật Khác, có lẽ Hà Nội vẫn còn trong Thanh Tâm Tuyền, nhưng những trang chữ của anh không còn tắm đẫm mùi hương Hà Nội nữa.
    Còn ai Hà Nội hơn Nguyên Sa, vậy mà thơ anh tràn ngập Paris, tràn ngập chất sống phương Tây, tắm đẫm hơi thở thời hiện đại hơn là quá khứ. Chỉ có Hoàng Anh Tuấn vẫn chung thủy với thành phố của anh.
     
    Em Hà Nội, Hàng Đường trong giọng nói
    Để Hàng Bông êm ái lót cơn mơ
    Thương những buổi chiều Bác Cổ ngày xưa
    Anh nắn nót một trường thi lãng mạn…..

    Hàng Vôi đó nồng nàn trong ngây ngất
    Ý Hàng Đào chín mộng trái môi chia
    Xin Hàng Than rực cháy lửa đam mê
    Khi quấn quít trong ái ân Hà Nội
    (Bài thơ Hà Nội)
     
    Hoặc
     
    Hà Nội yêu xin cầm tay lần nữa
    Một lần thôi cho vừa đủ hai lần
    Thêm ngày xưa hạnh phúc rất thiên thần
    Anh chết lặng trong tình yêu công chúa
    Cho đến tận khi sắp xa lìa ‘cõi tạm’, Hà Nội vẫn là nỗi day dứt không nguôi trong anh. Xin được trích một đoản thi buồn của anh trong những ngày cuối đời:
     
    Hà Nội anh giờ là giấc chiêm bao
    Cùng thơ ấu đã già đi trăm tuổi
    Buổi sáng nay tâm hồn nghe thơ dại
    Một thoáng vui chợt tới chợt bay đi
    Rồi nỗi buồn như lũ mọt ngu si
    Gậm nhấm nốt nửa linh hồn rữa mục.
    Bây giờ ngồi đây, trong căn phòng nhỏ của mình, giữa mùa thu San Jose, nghe lại Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội cũng chỉ là nghe lại một kỷ niệm:
     
    Mưa hoàng hôn
    Trên thành phố buồn gió heo may vào hồn
    Thoảng hương tóc em ngày qua
    Ôi người em Hồ Gươm về nương chiều tà…
    Vũ Ngọc Phan, trong “Hồi Ký Những Năm Tháng Ấy” viết:“Những người đã ở Hà Nội đến ba, bốn, năm đời, khi đi xa Hà Nội mà nhớ Hà Nội là thường tình, nhưng có người chỉ mới ở Hà Nội được một vài năm, có khi chỉ được mấy tháng, mà khi ra đi vẫn cứ nhớ cảnh, nhớ người, có thể là nhớ người hơn cả, thì đủ thấy Hà Nội có sức quyến rũ thật.”Có lẽ ông nói đúng, khi nghe ca khúc Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội của Trần Quang Lộc người ta đâu biết nhạc sĩ là người Quảng Trị. Nếu những người con của Hà Nội như Trọng Đài mô tả một Hà Nội Đêm Trở Gió với Cành me thì thầm gục đầu vào dĩ vãng, với Cô đơn sấu rụng ngoài ngõ vắng thì nhạc sĩ Trịnh, người con của cố đô Huế cũng dâng tặng Hà nội một ca khúc đầy hình ảnh và xúc cảm:
     
    Hà Nội mùa thu,
    cây cơm nguội vàng,
    cây bàng lá đỏ,
    nằm kề bên nhau,
    phố xưa nhà cổ,
    mái ngói thâm nâu.
    Hà Nội mùa thu,
    mùa thu Hà Nội,
     
    mùa hoa sữa về
    thơm từng ngọn gió,
    mùa cốm xanh về,
    thơm bàn tay nhỏ,
     
    cốm sữa vỉa hè,
    thơm bước chân qua .
    Hồ Tây chiều thu,
    mặt nước vàng lay
     
    bờ xa mời gọi .
    Màu sương thương nhớ,
    bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời.
    (Nhớ Mùa Thu Hà Nội. Trịnh Công Sơn)
     
    Hà Nội giờ đây có còn nguyên vẹn như những gì Hoàng Anh Tuấn, Mai Thảo, Trịnh Công Sơn … đã nhìn thấy không?
    Hà Nội ngày xưa đó có sẽ chỉ còn là một hoài niệm trong lòng những người nhớ thương nó không? Tôi nhớ những câu thơ của Phan Vũ mà tôi đọc cách đây không lâu
     
    Em ơi! Hà Nội phố!
    Ta còn em năm cửa ô Năm cửa
    gió Cơn bão thường niên qua đó
    Ba mươi sáu phố, Bao nhiêu mảnh vỡ?
    Ta còn em một màu xanh thời gian.
    Một màu xám hư vô, Chợt nhòe, Chợt hiện.
    Chợt lung linh ngọn nến,
    Chợt mong manh Một dáng,
    Một hình,
    Nhợt nhạt vàng son,
    Đậm đầy cay đắng…
    Sao chỉ sống một thời với Hà Nội thôi mà ông viết nên một Hà Nội phố thật đến thế, sâu đến thế, và buồn đến thế?
    Điều gì đã đưa chân ông trong những chiều lang thang trên các con phố xưa, tìm lại cái hồn sâu lắng còn quanh quất đâu đây của Hà Nội, miên man nghĩ, miên man nhớ đến độ:
     
    “bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi con đường”.
     
    Thơ, nhạc về Hà Nội dường như thời nào cũng đầy cảm xúc, nhưng sao vẫn thấy chất chứa nhiều nỗi nhớ quá, nhiều day dứt quá, nhiều hoài niệm quá… Và tôi tự hỏi giờ đây nếu Hoàng Anh Tuấn có một lần trở lại Hà Nội, liệu những bài thơ của anh về Hà Nội có còn mang vẻ đẹp như anh vẫn say mê làm cho đến tận ngày giã từ cuộc sống không? Hay kỷ niệm nào về những ngày xưa cũng đẹp, hay kỷ niệm thật ra chỉ đẹp khi đã là chuyện ngày xưa?
     
    Nhớ Hoàng Anh Tuấn, mà tôi đã tản mạn đủ chuyện trên trời dưới đất. Cũng chỉ vì một thành phố trong thơ ông: Hà Nội. 
     


    Hồ Đăng Thanh Ngọc

    GÃ CHÀI SÔNG HƯƠNG

    đò từ Đông Ba đò qua Đập Đá đò
    từ Vỹ Dạ thẳng Ngả Ba Sình đò chở
    người tình đò chở trăng chênh đò chở ngày
    xưa đi tới ngày nay đò chở mùa thu

    đi qua mùa hạ đò chở mái rạ đi
    về thành đô đò chở vu vơ đi qua
    trời rộng đò chở khát vọng tới miền phù
    hư gã chài ngất ngư chiều buông lưới nặng

    cỏ lau chất ngất gió mênh mang lòng hát
    ca ngày tháng cõi đời mơ suông gió không
    thành tiếng bài ca cá con lời Nam Ai
    vọng nhắn tình nước non …
    *
    gã chài chèo đò cập bến với liếp cá
    nặng vợ gã lên bờ bán được giá mỉm
    cười trong nắng chiều gã cũng cười theo trong
    nắng chiều những nụ cười tỏa nắng hạnh phúc

    ngày nào gã cũng mơ được như ngày này
    bởi ngày nào cũng được như ngày này thì
    đỡ lo miếng ăn cho mấy đứa nhỏ đỡ
    lo cái áo cái quần đỡ lo học phí

    cho con ừ đời gã chỉ cần liếp cá
    nặng hàng ngày thế thôi vợ gã mua cho
    gã cút rượu chống mỏi cuối chiều gã nâng
    chén cuối mạn đò một ngày đã qua như

    vạn ngày đã qua cầu mong bình yên cho
    cá cho tôm đầy lưới nhỏ gã và vợ
    gã không mong chi hơn không mong nhiều hơn
    đò từ Đông Ba đò qua …

    Huế, 4/2015

    Phạm Quyên Chi

    CĂN PHÒNG

    Những ngày đóng cửa chặn
    các sự vật tốt đẹp
    từng xảy ra trong cuộc
    đời dài của mình thời
    gian xoay vòng diễn tiến
    như bản năng mách bảo
    không có thừa số tiền
    để làm phiền một ai
    ngoài cánh cửa người bạn
    bán sách rong đang ngồi
    lật từng trang giấy đúng
    vị trí đúng tư thế ấy
    không biết đến khi nào
    cho xong chả là ngồi
    để chờ với ý nghĩ
    lê thê nhích gần lại
    suốt một thời gian đóng
    cửa chặn sự phản chiếu
    tháng năm đã đi qua
    của cuộc đời mình để
    lộ ra chiếc bóng đang
    chìm vào điều khó tin
    khó tin đến phải tin
    có thời gian mà không
    kịp đóng cửa ngăn lấy
    thói quen mơ hồ thế
    giới bên ngoài xóa sạch
    kí ức để trở lại
    làm người ngoài căn phòng.


    Nguyễn Văn Vũ

    HOA RẤT LẠ

    hoa của một mùa nhớ
    đã xa hoa rất lạ và
    hoa như cánh cửa này
    vừa mở cho em bước

    ra vườn nắng tràn ngập
    tiếng gọi mời đừng quay
    đầu nhìn lại con ngựa
    ăn đường* sẽ níu chân

    em và hoa rất lạ
    chùm thơ dưới lòng hồ
    sẽ làm em cay mi
    mắt hãy im lặng dẫm

    lên chiếc bóng chán chường
    hãy đặt xuống bàn những
    ly chai tính toán những
    cái chạm cốc tầm thường
    rồi đi đi cùng với
    tiếng trống vọng về tương
    lai đừng ngoái đầu nhìn
    lại hoa rất lạ hạnh
    phúc từ đây sẽ không
    rời xa em nữa đâu …

    *Con ngựa cưng được cho ăn (uống) đường khiến nó không muốn rời xa chủ.

    Hường Thanh

    SAO RƠI

    Một ngôi sao chợt rơi
    Rơi xuống bầu trời đêm
    Kéo theo vầng kim tuyến
    Long lanh trong mắt tôi

    Ngẩn ngơ nhìn sao rơi
    Mong manh trên bầu trời
    Rơi như giọt nước mắt
    Vạn vật thêm xao xuyến

    Tôi chìa ra bàn tay
    Hứng trọn màu giọt lệ
    Là nhánh gió sao rơi
    Từ nơi đâu nơi đâu

    Cây cỏ đang chao mình
    Vẫn lung lay trong gió
    Nơi sao buồn rơi rơi
    Nơi lòng tôi chơi vơi.

    Ánh sao thật trong sáng
    Lòng tôi ôm ngôi sao
    Như ôm một người bạn

    2006

    Nguyễn Thanh Hiện

    TRÁNG SĨ HỀ

    thơ tặng Phạm Văn Phương
    tráng sĩ ra đi hề
    ngựa sắt không xì hơi
    vẫn đi giữa trưa chan
    chan nắng hề cứ muốn
    úp mặt vào xiêm áo em
    đất lở trời lở hề
    không nao núng chỉ lo
    em bỏ ta đi hề
    buồn lắm tráng sĩ ra
    đi thời a còng loang
    lổ hề nón nhựa giày
    nhựa
    5/10/2014

    Hà Bạch Nguyên

    NHỚ … RÒNG RÃ

    Em lấy trái tim em ra
    ngoài và vạch tìm từng
    ngăn ký ức ngăn ký
    ức nào có hình ảnh

    Anh hẹn hò cùng em
    nơi công viên tao đàn
    nọ hay cầu calmette
    kia ngăn ký ức nào

    Có nụ hôn đầu làm em
    chết đắm ngăn ký ức
    nào có bàn tay tuyệt
    vời ơi anh ơi anh

    Ơi! đến hơn 20
    năm dư hương vẫn nực
    nồng như mới mới hôm
    qua mới hôm qua thôi

    Mà anh!? Em lấy óc
    em ra vạch từng sợi
    dây thần kinh xem ngày
    tiễn anh lên đường là

    Ngày nào cớ sao giờ
    em không nhớ chi hết
    chỉ nhớ nụ hôn anh
    chỉ nhớ bàn tay anh

    Lau nước mắt em dầm
    dề thằng út cứ xoay
    quanh chụp hình và má
    cứ nhìn em nhìn em

    Không ngớt bầu trời giữa
    trưa gắt nắng vẫn có
    đôi chim trên hàng dây
    điện kề mỏ nhau vẫn

    Có đôi nhân tình dìu
    nhau tiếng loa phóng
    thanh ồn đôi tai em
    đứng cạnh anh chờ lên

    Đường anh ơi em nhớ
    đến đoạn anh bước lên
    máy bay chờ rồi cất

    Cánh em như ngất đi
    em như ngất đi em
    nhớ đoạn phim này ròng
    rã suốt cả đời em


    Hạnh Ngộ

    IM LẶNG CŨNG NHƯ LỜI

    Cuộc đời là những chuyến đi gần nhau
    thì ít chia ly thì nhiều khi muốn
    hứa hẹn với anh những lời tư tình
    có cánh chợt khựng lại bởi biết rằng

    lời hứa đầu môi chẳng thành hiện thực
    thực hiện được mới lạ những lời em
    nói “muốn yêu anh mãi mãi” trong lúc

    say đắm lắm mới dám nói lời sấm
    truyền kiểu tình yêu vĩnh cửu yêu vô
    thời hạn và cũng bởi cuộc đời là
    những chuyến đi hôm qua anh nói “muốn

    gần em mãi mãi” hôm nay anh ở
    trời Tây em ở đời đây phương Đông
    với cơn giông tình đen trắng như vậy
    có phải lời nói gió bay hông? chắc

    không vì âm thanh ấy đọng trong em
    rất sâu vậy không phải giả cũng không
    phải là thật anh biết mà em biết
    mà lời nói bộc phát lúc tình say

    em trân trọng khoảnh khắc ấy nên thôi
    nếu có lần sau thì im lặng cho
    rồi vì cuộc đời là những chuyến đi
    gần nhau thời ít chia ly … cũng đành.


    <iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/8dBkf7zHF0A?si=zMNj89lp9qqDvRn4&amp;start=12" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture; web-share" referrerpolicy="strict-origin-when-cross-origin" allowfullscreen></iframe>

    Thơ Bùi Giáng Một Thử Nghiệm Đọc

    Khế Iêm

    LỜI NÓI, ÂM THANH & ĐỌC NGÔN NGỮ


    Hỏi tên, rằng biển xanh dâu
    Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa…

    Bùi Giáng

    Vào những thập niên cuối thế kỷ 20, hội họa liên tiếp thay đổi, từ Pop Art phản ứng lại Trừu tượng Biểu hiện (Abstract Expressionism), rồi hội họa Khái Niệm (Conceptual Art) lại phản ứng, và đưa ra một quan điểm mới: nghệ thuật về ý tưởng. Một tác phẩm nổi tiếng của Joseph Kosuth, vào năm 1965, Một và Ba Chiếc Ghế,chỉ đơn giản là một chiếc ghế xếp bằng gỗ, một bức hình chụp chiếc ghế đó, và phóng ảnh lớn một paragraph trong tự điển, định nghĩa chữ ghế.

    Bức tranh đã tạo ra cho người thưởng ngoạn một xúc động mạnh, và đưa ra nhiều vấn đề của nghệ thuật. Trong ba chiếc ghế đó, chiếc nào là chiếc ghế thật? Và ý nghĩa của nó là gì? Không ai có thể biết chắc vì chiếc nào cũng có thể thật và không thật. Và mỗi người bằng cảm quan của mình có thể tìm ra một ý nghĩa, và cũng không chắc đâu là ý nghĩa thật. Ý nghĩa vượt khỏi tầm bắt, ý nghĩa vắng mặt. Ý nghĩa vắng mặt không phải là không có ý nghĩa. Giống như khi đọc những trang sách, nhưng chẳng thể cứ đọc mãi. Phải gấp lại, còn thì giờ để thở, để sống. Nhưng nếu không đọc nữa, những trang sách vẫn còn đó, chờ đợi chúng ta quay tìm lại. Và thời hiện đại (và cả hậu hiện đại), quả thật là thời đại săn lùng ý nghĩa, như nhà điêu khắc Jerry Joslin muốn dành sự giải thích tác phẩm ông cho người thưởng ngoạn, vì họ có thể đọc ra được điều gì khác.

    Bức tranh phá vỡ lằn ranh giữa hội họa và điêu khắc, ra ngoài khung bố và màu sắc – bước vào thực tại. Ngôn ngữ hội họa không còn là màu sắc mà là những đồ vật thường ngày. Nhưng vấn đề là làm sao biến những đồ vật thường ngày trở thành ngôn ngữ là một điều khó, tùy thuộc vào tài năng của người nghệ sỹ. Ở đây, chúng ta đã nhìn ra sự hóa thân của ngôn ngữ, và chính nó tạo nên nghệ thuật.

    Từ những ý niệm sơ khởi đó, quay về với thơ. Và cũng như hội họa, chúng ta cần một tác phẩm nào đó, để đối chiếu, thử làm một cuộc truy lùng như thế. Và cũng như những thử nghiệm thơ, đây là thử nghiệm đọc.Tác phẩm “Chớp Biển” của Bùi Giáng, do gia đình và thân hữu in từ Canada (Vinagraphics), kỷ niệm 70 năm ngày sinh, là một tác phẩm thích hợp. Thích hợp vì không giống với bất cứ tuyển tập nào của Bùi Giáng từ trước tới nay, kể cả những tuyển tập được in mấy năm gần đây. “Chớp Biển” tạo nên ấn tượng làm người đọc phải liên tưởng tới “Mưa Nguồn”, bởi vì người tuyển chọn, như một cố gắng muốn đưa Bùi Giáng tới gần người đọc, và hình dung lại chân dung Bùi Giáng. Nếu “Mưa Nguồn” với giọng thơ gân guốc và nhiều chất điền dã, thì “Chớp Biển” như một tiếp nối đằm thắm, tưởng như hai giòng thơ ấy chẳng hề có đứt quãng. “Mưa Nguồn” in năm 1962, là tác phẩm đầu tay, đến nay đã 35 năm. 35 năm coi như đã đủ để nhìn ra một cuộc đời thơ, một hành trình thơ với bao nhiêu tang thương biến đổi. Có thể nói, “Chớp Biển” là tập thơ đi tìm lại “Mưa Nguồn”, những bài thơ đi tìm lại những bài thơ tiền thân. Mà ở khoảng thời gian giữa đó, như nhà phê bình Nguyễn Phan Cảnh, trong bài Số Phận Bùi Giáng đã viết: “Bùi Giáng thuộc số rất ít những nhà thơ thiên phú, đã được/bị lịch sử chọn để di truyền gien thơ dân tộc, phải vương cho hết tơ rồi có thác mới được thác. Vì vậy, việc giữa đường đứt gánh … thơ một cách không bình thường của anh vào thập niên sáu mươi rất có thể là một cách đã được chương trình hóa như thế nào đấy để chặn lại mạch thơ anh, một mã-khóa như thế nào đấy mà hiện nay chúng ta chưa đọc được”. Như vậy thì vấn đề Bùi Giáng là đi tìm cái mã khóa để mở ra một giòng thơ mà bấy lâu nay vẫn đóng kín, và cái khoảng thời gian giữa đường đứt gánh ấy lại là khoảng thời gian có một ý nghĩa lớn lao trong cuộc đời thơ và cả cho sinh mệnh của giòng thơ Việt. Nắm lấy, bắt mạch, hoán vị, trục xuất, phá hủy, viết lại bài thơ, như những nốt nhạc dấy lên từ ký ức, đưa bản văn từ bóng tối ra ánh sáng, từ vắng mặt thành có mặt. Bởi ký ức làm cho sự vắng mặt có ý nghĩa. Và như thế, ý nghĩa bài thơ là bài thơ khác, mà người đọc, đọc ra ở đằng sau bản văn. Bởi bài thơ chỉ hoàn tất khi nó được đọc, nếu không thì vẫn cứ mãi ở tình trạng dang dở. Nhà thơ dang dở với thơ, và thơ dang dở với nhà thơ.

    (Trong bài này, người viết phát biểu theo quan điểm của mình, tác phẩm lên tiếng, và người đọc là trung gian đánh giá và góp ý, tương tự như kiểu đối đáp trong thoại kịch, dù chỉ trên mặt giấy. Như vậy, người đọc có thể tìm ở đây, ít ra, một giá trị giải khuây nào đó. Bởi một điều, nếu trong sáng tác, chúng ta luôn trông chờ một điều gì mới, thì trong cách viết và đọc, cũng phải thay đổi một chút, cho trệch đi, và người đọc có thể tham dự trực tiếp để thơ có nhiều lối nhìn, nhiều cách soi rọi. Người viết có thể sai lầm, nói ra ngoài tác phẩm, người đọc điều chỉnh lại; và mặt khác, người đọc cũng có thể bước ra ngoài bài viết và tác phẩm để tìm kiếm một điều gì khác. Những bài thơ trích dẫn, không hẳn là tiêu biểu, vì đằng sau đó là trùng điệp thơ; và chỉ là cái cớ, đẩy người đọc đi tìm lại một dòng thơ… như thác đổ từ nguồn, hãy cứ để nó chảy lai láng, cuốn ta đi, và sau đó, trong khoảng khắc tình cờ, ta nhận ra nó, nó nhận ra ta. Như vậy không phải là điều thú vị lắm hay sao? Chú thích này trong bài, xin như một đoạn nhắc tuồng về vị trí của mỗi phía tham dự).

    Rượu Uống

    Thưa em rượu uống bây giờ
    Là trăm năm gục hai bờ tử sinh
    Động hờ hững Chúa điêu linh
    Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi
    Nhà ma cửa quỷ đi đời
    Chim hơi thở đục trong lời sương xanh
    Càn khôn xiêm mỏng che mành
    Về trong thiên hạ em thành thiên thâu
    Thưa em rượu uống bây giờ
    Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
    Tài hoa tiếng vọng điêu linh
    Phạm Đan Phượng chết theo Quỳnh Như sao
    Thưa em từ bữa nghiêng chào
    Chớm trang đầu chợt sóng trào trường giang
    Em đi rắc lá bên đàng
    Cỏ xanh rì mọc suốt càn khôn kia
    Mùa xuân mưa rưới ruộng lìa
    Về trong nắng hạ mép bìa sai bâu
    Thưa em rượu uống bây giờ
    Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
    Chạy quanh cồn cụm lá già
    Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng
    Càn khôn gió đổ chất chồng
    Rú như beo rống như hùm đổi hang
    Trên rừng dưới lũng tan hoang
    Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
    Thưa em rượu uống bây giờ
    Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma
    Hỗn mang về giữa hiên nhà
    Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
    Nhìn nhau trong lũy ngoài hào
    Lời phôi dựng một điệu chào dị sai
    Trên đầu thế kỷ chia hai
    Nguồn man mác lạnh tìm ai bây giờ
    Thưa em rượu uống bây giờ
    Là thiên thu lại còn trơ hận trường
    Cầm chung dâu biển khôn lường
    Chân trời mộng lý con đường chia ba
    Nam đình doanh trại dàn qua
    Trống chầu trùng ngộ thưa là không mong
    Hoạt tồn phát tiết sầu đong
    Tràng giang thế kỷ xô dòng xuống lean

    Thơ Bùi Giáng là cuộc vận chuyển không ngừng của ngôn ngữ. Và khi chuyển động, nghĩa của chữ chưa kịp xuất hiện thì ngay tức khắc bị chữ khác thay thế. Cứ như thế, thơ truy lùng thơ, ngôn ngữ truy lùng ngôn ngữ, và bài thơ này trùng lấp vào bài thơ khác. Nghĩa chữ chồng chất lên nhau, chữ này ẩn vào trong hay bị bao trùm bởi chữ khác, của bài thơ khác. Ý của thơ không còn nguyên ròng – bất định và ảo hóa. Đi tìm lại tiền thân, nhưng cũng chẳng ai biết bài thơ nào là tiền thân của bài thơ nào. Thơ ở trên trời dưới đất, muốn đọc thì với lấy, nhặt lên, bất chợt và tình cờ, chẳng thể chọn lựa, chẳng thể dừng lại vì vòng quay có bao giờ dừng lại.

    Trong lịch sử thơ Việt, chưa bao giờ lại có cuộc luân vũ mãnh liệt đến như thế, của ngôn ngữ. Và thơ, phải chăng, không nằm ở chính ngôn ngữ, mà ở khoảng khắc bốc hơi của ngôn ngữ, và chúng ta có thể tạm gọi cho đơn giản là quy trình hóa thân của ngôn ngữ. Bài thơ chẳng còn ở quá khứ hay hiện tại (và cũng chẳng phải tương lai) mà là tiến trình của thời gian. Và người đọc được mời gọi, nhập vào tiến trình ấy, để cùng hoàn tất thơ. Thơ làm khó diễn dịch và giải thích, vì vậy, chỉ còn lại người đọc và tác phẩm. Ngay tác giả cũng mờ nhạt trong định mệnh của vòng chơi. Nhưng không phải vì thế bài thơ không cần diễn dịch; sự diễn dịch cần thiết vì nếu nó kéo người đọc càng lúc càng xa tác phẩm, xa cách thơ, thì sẽ tạo nên phản ứng và nỗ lực làm người đọc tìm cách đến gần tác phẩm. Freud, khi đề cập tới việc đọc một tác phẩm văn học, cho rằng, đọc là phát hiện diễn tiến hóa thân của những yếu tố làm nên tác phẩm. Như vậy, ý nghĩa của bài thơ không quan trọng, mà quan trọng là cách nó tạo ra ý nghĩa.Nếu ngôn ngữ là hệ thống những ký hiệu, có nghĩa là sự tập hợp nhiều ký hiệu tạo nên ngôn ngữ, thì ngôn ngữ hẳn phải được nhìn theo một cách nhìn khác. Roland Barthes cho rằng, quần áo, quảng cáo, những hoạt động thể thao và tất cả đối tượng và hình thái ứng xử đều là hệ thống những ký hiệu phải được giải thích qua những ẩn tính văn hóa. Như vậy cái gì cũng có thể trở thành ngôn ngữ, nếu nó chuyên chở được một ý nghĩa, như một bông hoa là ký hiệu, nhưng nếu kết thành vòng hoa, nó trở thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ chi phối mọi khía cạnh trong đời sống, và nếu ngôn ngữ có trước cá thể, thì thơ đi trước nhận thức con người. Thơ, như một động lực phá vỡ ngôn ngữ, bởi ngôn ngữ tạo thành quyền lực, bao vây và nô lệ hóa con người. Chống lại ngôn ngữ, chẳng có cách nào khác hơn là đuổi bắt, diễu cợt và gây rối, bóp méo và làm dị dạng ngôn ngữ. Tựa như nhân vật Gregor Samsa của Franz Kafka (trong The Metamorphosis) bỗng chốc hóa thành dị hợm, không phải con người dù vẫn mang tâm trí của con người, hay những con vật trong Animal Farm của George Orwell, dù có biến thái thế nào đi chăng nữa, thì người ta vẫn có thể đọc được thông điệp từ đằng sau những biến cố. Những biến cố ấy chẳng qua cũng chỉ là những động lực giải phóng đời sống, cũng có nghĩa là giải phóng khỏi những chật chội, tù túng, áp bức của thực tại.

    Làm Thân Con Gái

    Trăng mới lên từ bữa nước không về
    Một hôm nào em mở cửa đầu khe
    Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ
    Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả
    Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng lá
    Chóc chim xanh đòi đẻ trứng bây giờ
    Đến bây giờ từ giờ một giờ hai
    Đến bây giờ từ giờ ba giờ bốn
    Soi gương mặt mày cong đo đếm lộn
    Tóc tơ nhung là nhớ lạc lầm trời
    Mây trên trời đầm đìa suối chung soi
    Ghềnh bóng vang đá ngựa tía cương đòi
    Đầu rớt xuống khi ngửa nghiêng tay gió
    Chân ngựa mỏi khi lời không thể tỏ
    Chân ngựa bay khi tiếng hụt chân trời
    Chân ngựa về khi điệu hỏi về môi
    Đất tròn trịa gối xanh trong thớ cỏ
    Sương đắng cay vì trái chín bây giờ
    Người hai chân là quốc sắc tò mò
    Người hai tay là đẹp không thể ngờ
    Người hai gối là tròn không thể tưởng
    Người hai một một hai là ngực ưỡn
    Người mở cửa để cho đời sung sướng
    Người chết đi để thiên hạ quên người
    Người trở về trong mộng đủ hai môi
    (Và không thiếu bất cứ cái gì trong thân thể)

    Thơ Bùi Giáng, gợi ra và soi sáng một điều: thơ là một chuyển động không ngừng, cuộc hóa thân đến kỳ cùng của ngôn ngữ. Từ thơ có vần đến thơ tự do, và cho đến những thể loại mang tính hình tượng bây giờ, cũng chỉ là những biến hóa của ngôn ngữ mà thôi. Nhìn lại thơ Mỹ, từ thơ có vần đến thơ tự do thời Walt Whitman, cho đến Concret Poetry (Thơ Cụ Thể), Found/Collage Poetry (Thơ Tìm Được/Cắt Dán)1, Projective Poetry (Thơ Dự Phóng)2, hoặc Organic Poetry (Thơ Hữu Cơ)3, hàng loạt những cách tân, thử nghiệm, kéo theo hàng loạt những phát biểu, những tuyên ngôn, thì cũng là những đột biến từ dạng thể này sang dạng thể khác. Ngôn ngữ chẳng qua là phương tiện như bất cứ phương tiện nào khác, một cục đá, một vật thể vô tri, cũng được, hà cứ phải là con đường chữ.

    Từ đó có thể nhìn ra, thơ Mới Tiền chiến là loại thơ mà ngôn ngữ bất động. Người đọc bắt được ngay ý và cảm xúc thơ. Tựa như một vật bất động, chúng ta dễ dàng nhìn ra hình dạng của nó, nhưng khi chuyển động thì khó lòng thấy được. Nếu chuyển động theo tộc độ cao, như tốc độ ánh sáng, thì vô phương nhận biết. Nói chung, người đọc có tâm lý chiếm đoạt và tiếm đoạt, nên dễ cảm thông được với thơ Tiền Chiến, bởi vì qua đó, ai cũng có thể làm thơ và phát biểu một vài điều về thơ. Nhưng khi bước qua cái khoảng vào đời ấy, tới một thời kỳ trưởng thành của thơ, thì không ai có thể vượt qua những khó khăn. Thơ của thời kỳ này, đối với người đọc thật tối tăm, khó hiểu, cầu kỳ, hũ nút và chừng như không phải thơ. Thơ lạ mặt với người đọc đã đành mà còn làm bối rối ngay cả với những người muốn tìm hiểu nó. Nếu thơ dị ứng với người đọc thì cũng tạo nên những phản ứng từ ngay những nhà thơ. Bùi Giáng quay về với cơn cuồng điên (có thật là cuồng điên?), Thanh Tâm Tuyền ẩn dật vào nơi chốn nào đó của ông, và Lê Đạt bông đùa với nhân thế. Quay về với cơn cuồng điên cũng là nhập vào cuộc xoay vần của con chữ. Nói cho ngay, đời sống chính là ngôn ngữ. Và người đọc nếu muốn hiểu thơ ông, cũng không có cách nào khác là nhập vào dòng chuyển động ấy.

    Nếu không thì người ta cứ tha hồ bới trên những bản văn, áp đặt những gì không dính líu gì đến thơ để tìm kiếm thơ. Nếu thơ, một nửa phần nằm trong tinh thần chiêm nghiệm và kinh nghiệm, còn nửa phần khác là sự học hỏi và đời sống, thì nếu không nhìn thấu suốt được cái toàn thể ấy, thì chẳng bao giờ chạm tới chỗ cốt lõi của thơ. Nói cho cùng thì thơ là vấn đề của ngôn ngữ. Và nếu nắm được sự biến hóa của ngôn ngữ thì nắm được thơ.

    Chân Trời

    Người đi lại thân đời vui như thể
    Sầu lên hoa dâu lá lạnh như hường
    Và mặt đất cát bờ cây phơi hé
    Nước lên cồn câu chuyện kể bên mương
    Lời cũng nói những lời vui như thể
    Mây xanh trời về đô hội môi cong
    Người thiếu nữ điểm trang hồng mắt lệ
    Chiều hôm qua chi phấn cũ phơi giòng
    Mái bỏ rớt xuống trần gian rơi tóc
    Áng can qua là buổi hẹn tương phùng
    Bờ liễu rộng bình minh em khóc lóc
    Hoàng hôn xanh thương nắng rộng vô cùng
    Vì bữa trước xuân đầu khô trụi lá
    Bốn chân trời thổi gió buốt thân tre
    Và chân bước mang em về tấc dạ
    Trong tấm lòng thu động rú truông khe
    Ngàn thông rụng đầu le sương lá cỏ
    Nước xuôi giòng em bước lại nghiêng vai
    Mây tơ tóc phai màu xuân chẳng rõ
    Tuyết thiên thu cành dâu gục ngân dài

    Nếu ví sự chuyển động của ngôn ngữ như sự chuyển động của hình ảnh, thì những hình ảnh liên tiếp vừa hoán đổi vừa vắng mặt tạo nên ý nghĩa, và ý nghĩa ấy cũng vừa hoán đổi, vừa vắng mặt. Sự đọc, chính là quy trình của vô thức, bởi vô thức là sự trượt lướt của ý nghĩa bên dưới những hình ảnh. Và nếu ví bản văn là tấm gương soi, thì qua đó, hình ảnh trong tấm gương cũng chẳng phải hình ảnh thực của chúng ta. Nó vừa thật vừa ảo, tạo nên sự mê hoặc của sự nhận biết, ta là chính ta, và qua cái chính ta đó, ta nhận biết được ta. Như vậy, có phải là bài thơ đã giúp chúng ta đi từ sự bí ẩn cùng tận để trở về hiện thực, từ vô thức trở về ý thức, từ tưởng tượng trở về thực tại. Vậy thì, vô thức chẳng phải là những gì chôn kín trong ta, mà là những gì ở ngoài ta, tác động và đan dệt chung quanh, từ thế giới bên ngoài, giúp chúng ta đi tìm lại được cái bản lai diện mục (của thơ hay của ai?). Thơ Bùi Giáng, cũng như thơ Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Thanh Tâm Tuyền, những nhà thơ đã móc vào được quy trình biến hóa đó, chẳng phải đã chuyển cách đọc một bài thơ, từ đáy sâu của vô thức đó sao?

    Ông Trời Chịu Thua

    Bây giờ tôi rất có quyền
    Hỏi ông trời: — chớ thuyền quyên là gì?
    Mà nhân gian nhớ li bì
    Từ thiên thư tới tám kỳ càn khôn
    Trời rằng: ngươi rất có quyền
    Hỏi như rứa đó… nhưng…
    – Nhưng sao
    – Nhưng ta không đủ thẩm quyền đáp đâu

    Trở về với bức họa Một và Ba Chiếc Ghế, đó là thí dụ khá cụ thể, để chúng ta có thể mường tượng quá trình của ngôn ngữ, quá trình thưởng ngoạn, từ phía sau của bức họa. Một tác phẩm nghệ thuật ví như ngôi nhà đóng kín, nếu không mở được cánh cửa thì làm sao thấy được những gì ở bên trong, nhìn ra giá trị đích thực của nó. Và người đọc phải chính mình bước vào, đối mặt, thẩm thấu và ném mình theo cơn sóng cuồng bí ẩn, với nó. Giống như những bức tượng của Rodin, đã có hàng ngàn trang viết về Rodin, nhưng không có gì có thể thay thế được tác phẩm ngoài chính tác phẩm. Và nếu tác phẩm là một cách lạ hóa đời sống, thì cách lạ hóa đó chẳng qua, là chỉ phát hiện những gì bị che mờ bởi thực tại, phát hiện cái thực tại của thực tại. Vả lại, thơ vượt lên và trải dài qua mọi thời kỳ, mọi trường phái lý thuyết. Và dù hiện nay, vẫn còn đang có tranh cãi gay gắt giữa các lý thuyết, thì mới thấy rằng, chính tác phẩm tạo nên lý thuyết chứ không phải những lý thuyết tạo nên tác phẩm. Nhưng nói gì thì nói, cả lý thuyết lẫn tác phẩm, nếu không có những cập nhật thường xuyên, thì sẽ chẳng bao giờ theo kịp được với những chuyển biến nhanh chóng của thơ và thực tại. Có điều là, những hành trình thơ, có dung chứa nổi và xuyên suốt được qua nhiều thời đại hay không. Một bức họa, một bài thơ, một tác phẩm văn học luôn luôn ẩn chứa những ma lực. Nhưng trước khi bước vào, chúng ta phải tìm cho ra cách đọc nó. Thơ Bùi Giáng có cái ma lực quyến rũ ấy, và ở thời ông, đã có biết bao nhiêu người làm thơ giống ông, nếu không về ngôn ngữ thì cũng về giọng điệu. Thật ra họ không làm thơ đâu, họ đọc ông đấy thôi. Và từ bao lâu nay, đã có nhiều người đọc, viết về thơ ông, nhưng đa phần cũng chỉ chạm tới được những gì ở bên ngoài thơ. Vì thế thơ ông càng lúc càng xa người đọc, và ông cũng càng lúc càng cô đơn, càng cô đơn thì càng đẩy ông vuột khỏi tầm bay, và lao vào một tinh cầu khác. Đọc, là đối thoại giữa ý thức và vô thức, giữa quá khứ và hiện tại, giữa người đọc và tác phẩm.

    Chúng ta nói tiếng nói của chúng ta, tác giả nói tiếng nói của tác giả, có khi trái cựa, có khi mỗi người mỗi ngả, nhưng qua đó, nẩy sinh ánh chớp sáng, ánh chớp ấy xẹt ngang, thanh tẩy và làm mới tâm hồn ta. Sự đọc, mỗi bài thơ, mỗi nguồn thơ, dường như đòi hỏi những cách khác nhau. Cách đọc ấy vốn đã có sẵn trong tác phẩm, không thể áp đặt từ bên ngoài, và vì thế, người đọc phải tự tìm lấy. Đó cũng chính là hàm ý, làm một bài thơ khác. Bài viết này cũng chỉ là một thử nghiệm, một cuộc đối thoại, giữa thế hệ này và thế hệ khác, như một nhấn mạnh, chỗ khởi đầu là phát hiện nơi chính thơ, một cách đọc khác. Và những bài thơ trích dẫn, chẳng qua, là đánh thức một nguồn thơ, mà chúng ta dường như đã quên mất, trong quá khứ (hay trong tiềm thức), làm nó sống lại, ẩn hiện, như giấc mơ hồi sinh. Và thơ Việt, dù đang trong sự chuyển mình theo một chiều hướng khác, thì chẳng qua cũng vẫn nằm trong cách thức hóa thân của ngôn ngữ, có gì lạ đâu.


    1.- Found/Collage Poetry (Thơ Tìm Được/Cắt Dán): tương tự như Pop Art, cóp nhặt câu chữ từ các nguồn khác như quảng cáo, truyện… dàn dựng thành bài thơ hay tạo hình bằng cách cắt dán chữ, hình vẽ từ các báo và tạp chí…

    2.- Projective Poetry (Thơ Dự Phóng): Gồm những chùm chữ thay cho dòng và các khoảng trống, có thể đọc từ chùm đầu tới bất cứ chùm nào, hoặc từ mảng chữ của chùm này đọc tròng tréo qua các mảng chữ của chùm khác.

    3.- Organic Poetry (anh PTH dịch là Thơ Hữu Cơ): Chủ trương thể thơ và hình thức bài thơ tùy thuộc vào cảm hứng tự nhiên hơn là các thể có sẵn, tương tự như Dạng Thức Thơ.


    Trích Vũ Điệu Không Vần – Khê Iêm – Nhà Xuất bản Văn học – http://thotanhinhthuc.org/ LỜI NÓI, ÂM THANH & ĐỌC NGÔN NGỮ VÀ…

    Sài GònSài Gòn mệt mỏi, chiều tan,
    Quán giăng bóng xế, lanh tanh, tiêu điều,
    Thương em, mà anh có hiểu,
    Gieo neo một chuyến, đò Kiều sang sông.

    01/5/2012

    Mưa ngâu!

    Cuộc đời duyên kiếp đấy thôi,
    Hãy đi đi sẽ xa xôi sẽ gặp,
    Làm chi mà phải hò hẹn,
    Cơn mưa chợt đến tóc em ướt rồi!
    Tóc mai ươn ướt rối bời,
    Làm sao thề thốt ngỏ lời cùng anh!
    Tim anh đã nhuộm màu hoa,
    Cánh phượng hồng rơi rớt sau mưa,
    Biết đâu được mất hay chưa,
    Chờ em không thấy, lưa thưa hạt sầu,
    Giăng vào đôi mắt nâu nâu,
    Giăng vào cuối ngõ, mưa ngâu mãi còn.

    15/5/2011

    Thần Tiên Trên Núi

    Đùa với tuyết
    rỡn với vân
    Một mình nhớ mãi gái trần gian xa

    Sương buổi sớm
    nắng chiều tà
    Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu

    -Bùi Giáng

    Faerie of the Mountain

    Jest with snow
    josh with clouds
    Pining for her without, within

    Foggy morns
    puce evenings
    One century means nothing in tears

    -ianbui dịch - https://www.facebook.com/nghia.bui.90

    NGUYỄN LƯƠNG BA | Translated by J. Do Vinh

    www.thotanhinhthuc.org

    TSUNAMI TSUNAMI

    When I first learned how to read, to write,
    to listen see and understand, to imagine,
    to remember my life drifting afar
    to a place that is suffering a natural

    Khi bắt đầu biết đọc, biết viết, biết
    nghe nhìn hiểu, biết tưởng tượng, biết nhớ
    lại trong đời mình đang trôi ở một
    nơi xa cái nơi đang bị thiên tai,

    disaster. The first time I heard tsunami
    tsunami tsunami, tsunami tsu-
    nami. Oh, south asia where I am
    familiar, had come to pass, had made landfall

    Thì lần đầu tiên tôi nghe tsunami
    tsunami tsunami, sóng thần sóng thần.
    Ôi vùng đông nam á nơi tôi biết,
    đã đi qua, đã cập bến, biết bao

    know that I have died on a stormy night.
    Oh but to let the boat sink. Oh the great
    and so many love, Ladang, Penang
    Galang Indonesia, when I on a

    Thân thương, nào Ladang, Penang
    Galang Indonesia. Khi tôi từ
    con thuyền vượt đại dương, một ra đi,
    sóng dữ, vâng sóng dữ và tôi biết

    boat crossing the seas on a voyage.
    The horrible waves after waves and I
    storm quickly passing powerfully and
    naturally without question, and I

    Rằng mình đã chết giữa đêm giông bão.
    Ồ, thì cũng đành để con thuyền chìm.
    Ôi, cơn bão lớn lao vội vàng đi qua,
    mạnh mẽ, thản nhiên chả cần hỏi han.

    imagine the horror but how could I
    imagine such horror when the waves like
    the heavens crashing down on the beautiful
    beaches like a dream where there are people

    Và tôi liên tưởng sự khủng khiếp kinh
    hoàng, mà làm sao liên tưởng được khi
    cơn sóng như trời sập đánh vào các
    bãi biển xinh đẹp thơ mộng, mà ở

    enjoying the pleasures of the world, so
    it begs the question where is God’s mercy
    for a tsunami as such? (a Christmas
    had just come to pass). Too many people

    Đó những người ở thế gian đang tận
    hưởng lạc thú trần gian thì thử hỏi
    ân sủng của Chúa và tsunami là thế nào?
    (Một mùa Giáng Sinh vừa mới qua đi.)

    had been killed in a single day quickly
    disappearing, quickly dissolving while
    they were speaking and smiling in this life.
    Life remains virginal. Let’s look to the

    Quá nhiều người đã chết trong một ngày,
    nhanh chóng biến mất, nhanh chóng tan đi
    mà họ thì đang cười nói với cuộc
    đời này. Cuộc sống vẫn còn trinh nguyên,

    Southern sea and the mother holding her
    child in Banda Aceh had died truly not
    knowing what to say! The sea is now calm?

    Hãy nhìn về biển Đông và bà mẹ
    đang ôm đứa con ở Banda Aceh
    đã chết, mà thật không biết nói gì!
    Mà biển thì lại đang êm, có phải?


    TÌNH NGƯỜI VÀ THƠ TÂN HÌNH THỨC

    Nguyễn Lương Ba

    Nhân loại luôn đặt mình trong tương giao phổ quát của những đối xử huynh đệ và thiện cảm là ý nghĩa mà lịch sử phải thực hiện trong giòng sống của con người. Lịch sử phải vượt qua những tương tàn và hủy diệt để mở tới một triển vọng nhằm thiết lập một nhân loại đại đồng và thống nhất trong đời sống. Lo lắng của lương tâm trở thành mơ ước của ý hệ. Chính ở trong sự chuyển hóa từ một tình tự trung thực đến một hệ thống tư tưởng, ý nghĩa của lịch sử đã bắt đầu theo một chiều hướng suy đồi. Một tác động nhằm đưa hệ thống tư tưởng vào thực tiễn xã hội thêm một lần nữa lay dộng ý nghĩa đó đến tận nền tảng. Lịch sử bắt đầu thăng trầm theo khả năng luận lý, nhận thức và phán đoán của con người. Trên quan điểm đại thể, văn học nghệ thuật sẽ đưa nhân loại về một nhìn nhận đáo lý và cấp thiết. Nó như một sức phản động mọi mưu toan ám hại đời sống con người bằng mọi phương tiện của tư tưởng và bạo động. Một nền văn học nghệ thuật phục vụ cho một chủ nghĩa và xem thành quả của hoạt động đó như là công trình văn hóa là một nghệ thuật đã đặt nhân loại ra khỏi mọi cứu rỗi, bởi lúc đó nghệ thuật đã trở thành một thứ công cụ nằm chết trong một cơ cấu ý hệ. Trong viễn tượng đó, nghệ thuật đã thu hẹp nhân loại vào bên trong một phần mơ ước của ý hệ chỉ có tính cách giai đoạn. Do đó nghệ thuật bị cô lập giữa toàn bộ đời sống của nhân loại và sẽ chết ngạt giữa sự kết án của tập thể quần chúng. Nghệ thuật như vậy chỉ có nghĩa là làm đầy những khoảng trống để hoàn thành cơ cấu ý hệ một cách tốt đẹp. Nó đang bỏ quên những thực tại khác, những tập thể khác và rồi nó đứng bên ngoài trái tim và số phận của nhân loại. Nghệ thuật luôn phấn đấu cùng khả năng bạo động, vận hành của lịch sử, chia sẽ những tình cảm của con người để nhằm thực hiện mơ ước đích thực và sâu xa của nhân loại. Ai đó có lần nói đến sự lớn lao của nghệ thuật hẳn không quên nghĩ tới điều đó.

    Từ những hoàn cảnh bi thảm và đau xót do thiên tai Sóng Thần xãy ra ở vùng Nam Á, những người làm văn học, nghệ thuật đều cảm thấy xúc động. Không những là xúc động mà còn bị thôi thúc như là một ý thức đối với lịch sử để nói lên tiếng nói, thiết lập một ý nghĩa thực tiễn, san sẻ nỗi đau của con người bằng chính ngôn từ của mình.Văn thơ chỉ có thể diễn tả trong ngôn từ vì vậy nó không định hình thành cơ cấu, bởi ngôn từ không thể trở thành sự vật. Đó chính là sức mạnh của tình cảm và ý thức. Tác dụng của nó sẽ có hiệu lực trên bình diện rộng lớn bởi vì văn thơ không nhắm đến bản thân của cá nhân mà bày tỏ cho cả một tập thể. Nó thu gọn đời sống trong một tác phẩm nhỏ bé nhưng đồng thời mở ra một viễn tượng đời sống rộng lớn và bao quát hơn. Cùng với những tiếng nói khác, chia sẻ niềm đau thương của con người trước thảm nạn Sóng Thần, website Thơ Tân Hình Thức đã mở rộng trang thơ để đón nhận bài vở của các bạn văn gửi về. Có thể đọc bài của nhà thơ Lý Đợi ở Sài Gòn, Đặng Thân ở Hà Nội, Hoàng xuân Sơn ở Canada và bài vở của các nhà thơ từ các tiểu bang của nước Mỹ. Ý thức này là điều kiện để nghệ thuật xâm nhập vào thực tiễn xã hội, cơ cấu tập thể nhưng ý thức này cũng đồng thời bắt đầu cho nhịp vận chuyển đổi thay. Cho dù tác dụng của nghệ thuật trên bình diện xã hội chưa được bày tỏ tức thì, người làm văn học nghệ thuật có thể cảm thấy chu toàn công tác của mình một phần nào đó bởi vì trách nhiệm nghệ thuật mà tập thể đòi hỏi là một trách nhiệm lý thuyết, căn cứ trên những giá trị tinh thần. Như vậy có một tương quan chặt chẽ giữa nghệ thuật và quần chúng. Nghệ thuật gắn liền với quần chúng trong lý do hiện hữu cũng như trong trách nhiệm lịch sử. Quả thực, nghệ thuật là tiếng nói và hơi thở cuối cùng của con người trong xã hội nhất là một xã hội bạo động và tai ương. Nghệ thuật đứng bên trên hạ tầng kiến ttrúc cho nên không thể đòi hỏi những tác động hữu hình và thực tiễn của giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, nghệ thuật còn cải hóa ngược lại cho lực lương hạ tầng kiến trúc đó đồng thời có thể bày tỏ sự thiết lập mới cơ cấu lực lượng trên. Đó là con đường mà nghệ thuật đi vào đời sống hiểu như là một ngôn ngữ của đời sống.

    Mỗi bài thơ Tân hình thức của mỗi tác giả đều mang những tâm trạng khác nhau hay nói một cách sâu xa hơn những truyền thống tinh thần, văn hóa xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử đã tác động mãnh liệt lên những xúc cảm của họ như là vai trò của đạo đức nhằm giải thích sự giới hạn giá trị cá thể và đặt cá thể vào trong một tương quan xứng hợp với đạo sống của một con người, của một dân tộc. Họ rung động thật sự những thực tại của đời sống, những khổ đau đích thực mà không bị luận lý của ý hệ che mờ.

    Và thơ Tân hình thức với tính cách mở rộng của thể loại thơ đã giúp phụ vào, chuyên chở tình tự không những bắt nguồn từ thực tại để diễn tả chân lý của thực tại mà còn đem tới một sự đổi thay cho thực tại. Từ diễn tả đến đổi thay là một nhịp vận động tiến bộ của nghệ thuật kêu gọi một sự nhìn nhận phổ quát để thực hiện mơ ước của nghệ thuật. Chính giá trị của nghệ thuật được bày tỏ trong nhịp vận động này. Trên bước đường thực hiện ý nghĩa của mình, thơ Tân hình thức vươn dậy như một tác động đối với đời sống, từ đó xây dựng một truyền thống và một quá trình hiện hữu lớn lao. Một viễn tượng mở ra như thế cũng là một thử thách tâm hồn những người theo đuổi nghệ thuật vậy.

    * Xin đọc các bài thơ Tân hình thức viết về thảm nạn Sóng thần.


    NGUYỄN LƯƠNG BA | Translated by J. Do Vinh

    www.thotanhinhthuc.org

    TSUNAMI TSUNAMI

    When I first learned how to read, to write,
    to listen see and understand, to imagine,
    to remember my life drifting afar
    to a place that is suffering a natural

    Khi bắt đầu biết đọc, biết viết, biết
    nghe nhìn hiểu, biết tưởng tượng, biết nhớ
    lại trong đời mình đang trôi ở một
    nơi xa cái nơi đang bị thiên tai,

    disaster. The first time I heard tsunami
    tsunami tsunami, tsunami tsu-
    nami. Oh, south asia where I am
    familiar, had come to pass, had made landfall

    Thì lần đầu tiên tôi nghe tsunami
    tsunami tsunami, sóng thần sóng thần.
    Ôi vùng đông nam á nơi tôi biết,
    đã đi qua, đã cập bến, biết bao

    know that I have died on a stormy night.
    Oh but to let the boat sink. Oh the great
    and so many love, Ladang, Penang
    Galang Indonesia, when I on a

    Thân thương, nào Ladang, Penang
    Galang Indonesia. Khi tôi từ
    con thuyền vượt đại dương, một ra đi,
    sóng dữ, vâng sóng dữ và tôi biết

    boat crossing the seas on a voyage.
    The horrible waves after waves and I
    storm quickly passing powerfully and
    naturally without question, and I

    Rằng mình đã chết giữa đêm giông bão.
    Ồ, thì cũng đành để con thuyền chìm.
    Ôi, cơn bão lớn lao vội vàng đi qua,
    mạnh mẽ, thản nhiên chả cần hỏi han.

    imagine the horror but how could I
    imagine such horror when the waves like
    the heavens crashing down on the beautiful
    beaches like a dream where there are people

    Và tôi liên tưởng sự khủng khiếp kinh
    hoàng, mà làm sao liên tưởng được khi
    cơn sóng như trời sập đánh vào các
    bãi biển xinh đẹp thơ mộng, mà ở

    enjoying the pleasures of the world, so
    it begs the question where is God’s mercy
    for a tsunami as such? (a Christmas
    had just come to pass). Too many people

    Đó những người ở thế gian đang tận
    hưởng lạc thú trần gian thì thử hỏi
    ân sủng của Chúa và tsunami là thế nào?
    (Một mùa Giáng Sinh vừa mới qua đi.)

    had been killed in a single day quickly
    disappearing, quickly dissolving while
    they were speaking and smiling in this life.
    Life remains virginal. Let’s look to the

    Quá nhiều người đã chết trong một ngày,
    nhanh chóng biến mất, nhanh chóng tan đi
    mà họ thì đang cười nói với cuộc
    đời này. Cuộc sống vẫn còn trinh nguyên,

    Southern sea and the mother holding her
    child in Banda Aceh had died truly not
    knowing what to say! The sea is now calm?

    Hãy nhìn về biển Đông và bà mẹ
    đang ôm đứa con ở Banda Aceh
    đã chết, mà thật không biết nói gì!
    Mà biển thì lại đang êm, có phải?


    Sự hỗn loạn và bối rối của một tình yêu hồi sinh / The Chaos And Confusion Of A Rebound Love

    Rebound love occurs when a person has been in a long-term relationship and jumps headfirst into a brand new one. Excuse the terminology but this is pretty much how it happens.

    We have probably all done it and wondered later what possessed us to do such a thing when we were only beginning to grieve for our recent loss.

    So why do we do it? Lock horns with a new romantic interest even though our perfume was probably still lingering on our ex partner’s pillow slip.

    The reason is we may not feel compelled to revisit the person in the last relationship depending on how it ended but we crave the closeness and familiarity of the relationship itself.

    I was explaining this to a friend who had recently been through a break up to be told quite indignantly that she was not interested in her ex just finding someone new. Her words said it all as why would anyone want to hook up with someone so FAST after a 5 year relationship?

    She took the leap of urgency and was convinced she was in love with the first guy she met. Knowing that everyone has their own journey I stayed very quiet on the sidelines while she got hurt instantly and then proceeded to date another guy where the same thing happened again.

    The thing is she swore black and blue she was over her ex partner and even though this was probably true she was not ready to commit to a new meaningful, relationship just yet. After the second guy did not measure up she began to realize that there was a lot to be said about this thing called a REBOUND LOVE.

    What had actually happened was my friend was missing the ingredients that make up a relationship cake.

    She was adamant that her ex partner was no longer the right man for her anymore which is fine but she was not aware that the relationship originally worked because both of them wanted to be together.

    You see you meet someone, fall in love and decide you want to build a life together. After a period of dating you decide to move in together and start buying things for your love nest and making it into your home. You may get married and have children, buy a house and make new friends all the things that bind you together and make you no longer just a couple but a family.

    You are living the dream and believe with all your heart that it will be this way for the rest of your life.

    Suddenly the dream of a happy ever after has ended as the light has gone out on the relationship and nothing could be done to fix it.

    You are a mix of emotions. You at first feel relief that a resolution has been made but his is soon out shadowed by feelings of loss, sadness and GRIEF. You ended the relationship so you cannot understand why you would feel this way and find the feelings so overpowering you just want to find away to snuff them out.

    Lying in your bed at night alone you are not missing your ex but you wish there were someone next to you holding you the way he used to, making you feel safe and warm. This is what makes a significant RELATIONSHIP so hard to get over because it is a union of two people who come together to create something far bigger than themselves. When two becomes one again the loss of that way of life can be devastating.

    So rebound love is a way of finding the comfort and security you may have experienced in your last relationship.

    The dangers of rebounding are more hurt and confusion, as you may not be aware of the baggage you are carrying. Some sure-fire ways to tell if you are in a relationship with someone on the rebound are as follows.

    1. Is your new guy constantly talking about his ex? It is not important whether they say good or bad things about them just the fact that he has not let go.
    2. Does he carry photos of his ex in his wallet? Ouch that is going to be a real turn-off to you I think.
    3. How long has it been since he broke up with his partner because if it is not too long you better know he is on the rebound and could be out of the new one with you as fast as he came in.

    I am not discounting the fact that there have been many beautiful love stories emerge from a rebound relationship but I am urging you to be aware of what you are getting yourself into if you choose a rebound love.


    Tình yêu hồi sinh xảy ra khi một người đã có một mối quan hệ lâu dài và lao đầu vào một mối quan hệ hoàn toàn mới. Xin lỗi vì thuật ngữ này, nhưng đây gần như là cách nó diễn ra.

    Có lẽ tất cả chúng ta đều đã từng làm điều đó và sau đó tự hỏi tại sao mình lại làm như vậy khi mới bắt đầu đau buồn vì mất mát gần đây.

    Vậy tại sao chúng ta lại làm vậy? Quyến rũ một mối tình mới mặc dù mùi nước hoa của chúng ta có lẽ vẫn còn vương trên gối của người yêu cũ.

    Lý do là chúng ta có thể không cảm thấy bắt buộc phải quay lại với người trong mối quan hệ trước tùy thuộc vào cách nó kết thúc nhưng chúng ta khao khát sự gần gũi và quen thuộc của chính mối quan hệ đó.

    Tôi đang giải thích điều này với một người bạn vừa mới chia tay thì nhận được câu trả lời khá phẫn nộ rằng cô ấy không quan tâm đến việc người yêu cũ tìm kiếm một người mới. Lời cô ấy nói đã nói lên tất cả, tại sao lại có người muốn hẹn hò với một người NHANH CHÓNG như vậy sau 5 năm yêu nhau?

    Cô ấy đã hành động vội vã và tin chắc rằng mình đã yêu chàng trai đầu tiên gặp mặt. Biết rằng mỗi người đều có hành trình riêng, tôi chỉ im lặng đứng ngoài quan sát trong khi cô ấy bị tổn thương ngay lập tức, rồi lại tiếp tục hẹn hò với một chàng trai khác, và mọi chuyện lại tiếp diễn như vậy.

    Vấn đề là cô ấy đã thề thốt đến tận xương tủy rằng mình đã quên được người yêu cũ, và mặc dù điều này có lẽ đúng, cô ấy vẫn chưa sẵn sàng cam kết một mối quan hệ mới, có ý nghĩa. Sau khi người đàn ông thứ hai không đáp ứng được kỳ vọng, cô ấy bắt đầu nhận ra rằng có rất nhiều điều đáng nói về thứ gọi là TÌNH YÊU ĐỔI LẠI.

    Điều thực sự xảy ra là bạn tôi thiếu những nguyên liệu tạo nên chiếc bánh tình yêu.

    Cô ấy kiên quyết rằng người yêu cũ của cô không còn là người đàn ông phù hợp với cô nữa, điều đó cũng bình thường thôi, nhưng cô ấy không biết rằng mối quan hệ ban đầu có hiệu quả vì cả hai đều muốn ở bên nhau.

    Bạn thấy mình gặp gỡ ai đó, yêu nhau và quyết định xây dựng cuộc sống cùng nhau. Sau một thời gian hẹn hò, bạn quyết định dọn về sống chung và bắt đầu mua sắm đồ đạc cho tổ ấm tình yêu của mình và biến nó thành tổ ấm. Bạn có thể kết hôn và sinh con, mua nhà và kết bạn mới – tất cả những điều gắn kết hai người lại với nhau và khiến hai bạn không còn chỉ là một cặp đôi nữa mà là một gia đình.

    Bạn đang sống trong giấc mơ và tin tưởng hết lòng rằng giấc mơ đó sẽ kéo dài suốt quãng đời còn lại của bạn.

    Đột nhiên giấc mơ về một cuộc sống hạnh phúc mãi mãi đã kết thúc khi ánh sáng trong mối quan hệ đã tắt và không còn gì có thể cứu vãn được nữa.

    Bạn là một mớ cảm xúc hỗn độn. Ban đầu, bạn cảm thấy nhẹ nhõm vì đã tìm được giải pháp, nhưng rồi niềm vui ấy nhanh chóng bị che lấp bởi cảm giác mất mát, buồn bã và ĐAU BUỒN. Bạn đã kết thúc mối quan hệ nên không hiểu tại sao mình lại cảm thấy như vậy, và cảm thấy những cảm xúc ấy quá mãnh liệt đến nỗi bạn chỉ muốn tìm cách dập tắt chúng.

    Nằm một mình trên giường vào ban đêm, bạn không hề nhớ người yêu cũ, nhưng bạn ước gì có ai đó bên cạnh, ôm bạn như cách anh ấy đã từng, cho bạn cảm giác an toàn và ấm áp. Chính điều này khiến một MỐI QUAN HỆ quan trọng trở nên khó vượt qua đến vậy, bởi vì nó là sự kết hợp của hai con người đến với nhau để tạo nên một điều gì đó lớn lao hơn chính họ rất nhiều. Khi hai người lại trở thành một, sự mất mát của lối sống đó có thể là một thảm họa.

    Vì vậy, tình yêu hồi phục là cách tìm lại sự thoải mái và an toàn mà bạn có thể đã trải nghiệm trong mối quan hệ trước.

    Nguy cơ của việc “rebound” còn lớn hơn cả tổn thương và hoang mang, vì bạn có thể không nhận thức được những gánh nặng mình đang mang. Dưới đây là một số cách chắc chắn để nhận biết liệu bạn có đang trong mối quan hệ với một người “rebound” hay không.

    1. Người yêu mới của bạn có liên tục nhắc đến người yêu cũ không? Việc họ nói tốt hay nói xấu về người yêu cũ không quan trọng, quan trọng là anh ấy vẫn chưa buông tay.
    2. Anh ấy có mang theo ảnh người yêu cũ trong ví không? Ôi, chắc chắn điều đó sẽ khiến bạn mất hứng.
    3. Anh ấy đã chia tay với người yêu bao lâu rồi? Nếu không quá lâu thì bạn nên biết rằng anh ấy đang trong giai đoạn quay lại và có thể chia tay người yêu mới với bạn nhanh như khi anh ấy đến.

    Tôi không phủ nhận sự thật rằng có rất nhiều câu chuyện tình yêu đẹp nảy sinh từ mối quan hệ hồi phục nhưng tôi muốn khuyên bạn hãy nhận thức được điều gì bạn sẽ gặp phải nếu bạn chọn một mối tình hồi phục.


    Source by Linda E Cole

    GIẢI MÃ THƠ

    NỖI KHẮC KHOẢI THỜI GIAN VÀ NGÔN NGỮ

    Đỗ Minh Tuấn

    Để ngày xanh rơi vào miệng vực

    Trong thơ ca nhân loại, các thi pháp, trường phái và phong cách khác nhau dường như đều bắt đầu từ thái độ cảm nhận của thi nhân với thời gian. Mơn trớn thời gian, chiêm ngưỡng thời gian, đưa đón thời gian, chiêm nghiệm thời gian, lặn sâu vào kẽ nứt của thời gian, tìm lại thời gian đã mất, tách bạch thời gian yêu và thời gian chết, thời gian trần thế và thời gian nghi lễ, thời gian cô độc và thời gian lễ hội … Tất cả những ứng xử khác nhau đó làm nền tảng tâm linh bản thể của những hành xử ngôn từ. Khế Iêm, ngay trong tập thơ đầu của mình đã nói bằng giọng điệu của thời gian. “Thanh Xuân”, tên tập thơ gợi một cảm nhận xanh mát trinh nguyên về thời gian đầu đời, về hương sắc đầu mùa và những cảm nhận tươi non. Nhưng thực tế, cảm nhận về thời gian trong đó đã nhuốm màu mệt mỏi, chán nản, u hoài. Bàng bạc khắp tập thơ là một nỗi ám ảnh về sự trớ trêu của thời gian, sự lệch nhịp với dòng đời và độc chất hư vô của cõi thời – không, nơi nhà thơ luôn bị đong đưa giữa khoảnh khắc và vĩnh cửu.

    Cuộc sống trong thơ Khế Iêm chớp nhoáng, mọi thứ lại như luôn trễ hẹn khiến ta phải đợi chờ:

    Tin báo rằng mặt trời đã tận
    Trái đất là một thoáng lửa trôi
    Tin báo
    Chờ đợi
    Mất hút
    Lặng lẽ
    Lá rơi trong khoảnh khắc
    Ẩn mật
    Mộng gõ tối tăm mắt rộn rã
    Thoảng đưa hương ngâu thôn đời xa
    Tắt
    Thời gian bị trục trặc:
    Lũ chim chóc đóng băng trong không
    Và tháng ngày trôi bồng bềnh trên đất

    Thời khắc bị nhuốm độc bởi quá khứ và tương lai, mất đi cái trinh nguyên của hiện tại, bị cái chết của người, của lời, của cảnh vật, ám ảnh như âm binh:

    Những người đưa ta từ bao đời trước đến
    Những người chôn ta từ bao đời sau về
    Âm binh…
    Cơn gió nào thổi tan lời nguyện
    Con sói về ăn những mảnh trăng
    Bên cõi người một hồn nắng tuyệt
    Có tiếng người ở giữa lòng chăng

    Tin báo

    Ngày của thi nhân, ngày của thơ ca là cái ngày xanh rơi vào miệng vực. Và, trong tư cách kẻ làm chứng cho cái chết được báo trước của thời gian, thi nhân luôn hoang mang, bối rối trước cõi hình tướng nhập nhòa, trôi nổi:

    Mắt quáng gà
    Hư thực nhập nhòa hoài
    Bực bội
    Quá khứ dở hơi
    Mẩu thuốc cháy

    Khói

    Trải khắp những trang thơ là một cõi đời tàn phế. Dường như cõi thế làm bằng mây, khói, toàn cảnh nước trôi, hoa trôi, mây tan, nắng tàn, nắng lung lay, chim tan tác, khói bất trắc, khói điên, gió chiếc, gió thoảng, gió tất tưởi, đoá hoa khóc, trăng vù xa … Một thế gian rạn vỡ tưởng chừng như làm bằng mây khói. Mây và khói lan tỏa che phủ khắp cõi thơ Khế Iêm gợi ấn tượng về cõi phù vân theo cái nhìn của nhà Phật. Mây và Khói dường như là biểu tượng nơi sâu thẳm nhất của vô thức nhà thơ, bởi nó kết tụ được tất cả cái tính cách gây hấn, ngất ngưởng, bất trắc(khói điên, khói ngất ngưởng, khói bất trắc, khói thiêng),cái vô thường của hình tướng, cái sinh thành và tan rã làm lộ diện thời gian, cái hình hài mật ngôn và cái lặng thinh câm nín của cõi vô ngôn hằng quyến rũ. Không phải ngẫu nhiên, những bài thơ mới nhất của Khế Iêm là sự hòa trộn của ám ảnh lời, ám ảnh thời gian, ở đó, cả lời và thời gian đều bị giam trong dạng khói. Thơ Khế Iêm là một ngục-biếckép theo cấu trúc như vậy, nó là một tù ngục nhốt chung vĩnh cửu và mong manh, lên tiếng và câm nín. Và bao trùm lên tất cả là nỗi khắc khoải về thời gian và ngôn ngữ, được phóng chiếu vào hình tượng khói, là nơi có thể ký thác được cả cái trần thế và thiêng liêng, cái vô hình và hữu hình, cái vô ngôn và mật ngôn, cái hiển hiện và khuất lấp, cái ám ảnh và phôi pha. Khói là hình tượng trọng tâm của cụm hình tượng trong thơ Khế Iêm gồm: Khói, Tro, Mây, Gió, Trăng, Hoa. Trong đó, chỉ có khói và tro là nối với gia đình và đời thực, còn mây, gió, trăng, hoa đều đã bị cổ điển hóa, cách điệu hóa, vũ trụ hóa. Xem cấu trúc của hệ thống hình tượng cũng thấy được tâm thế phiêu diêu của thi nhân rung cảm nhiều hơn với bầu trời, với cõi không, dù vẫn lắt lay kết với cõi thực bằng tro và khói – hai hủy thể của thời gian. Mang cảm thức lênh đênh, thân phận một con đò chốc chốc lại hiện lên trong thơ Khế Iêm dưới tia chớp giác ngộ về cõi thế hư ảo.

    Thảng thốt cội rễ lời

    Cõi thực tan rã như vậy, còn lại cõi lời của riêng thi nhân cũng trở nên ấp úng. Nhà thơ hoài nghi ngôn ngữ, phỉ báng lời bằng những cảm nhận bi đát: quặn lời, hắt hiu lời, khỏa thân lời, ngôn ngữ điếc, hoài hủy nói. Nhà triết học, thiền sư biết rõ chân tướng của ngôn từ là giả trá và bất lực, ngay cả những ngôn từ thượng thặng như lời kinh cũng chỉ là vật che khuất bản lai diện mục của thế gian:

    khom
    lưng bất động như thế cho đến khi giọt
    chuông chiều kia làm tan đi người và vật
    kiến tạo im ắng mà lâu nay bị
    che khuất bởi cánh liếp của lời kinh

    Níu lại

    Lời là chiếc bình phong lộng ngôn cần phải xé đi, là thứ vô tích sự, chẳng làm ai phiền hà gì, chỉ chạy theo đuổi thiên nhiên, khi nào gió lên thì bảo. Nhà thơ ngộ ra một tình huống:

    lúc khởi sinh
    ngôn từ đã bắt đầu gầy mối hiểm nguy

    Con người là kẻ:

    cầm lời đi vào chỗ không hề biết trước

    Cũng vẫn cái tư tưởng “Khởi thủy là lời” của Kinh Thánh, nhưng trong thơ Khế Iêm lời là mối nguy hiểm đầu tiên. Nếu Hölderlin coi ngôn ngữ là thứ làm chứng cho bản thể con người, thì Khế Iêm coi lời là sự xuyên tạc bản thể. Hơn một lần, nhà thơ để lộ địa chỉ cõi đẹp của mình ở chốn không lời và loay hoay giải thoát khỏi cõi lời, đốt cháy lời,chôn cất chữ để khai quang cái đẹp miên viễn kia :

    đốt cháy lời
    để mai kia mốt nọ
    không truyền giao
    không sách sử
    nhưng ở bên kia chốn không lời
    đóa hoa nở

    Lời

    đánh một giấc đồng
    lòa chôn cất cho xong
    mộ phần chữ

    Lộng ngôn

    Trong lúc chưa đạt tới cõi vô ngôn, chưa tới được đóa hoa trí huệ (Prâna) trong tâm thức thì thái độ sống thường trực của nhà thơ là:

    đành chịu trầm mình không nói năng giữa thế giới vắng mặt (và có mặt)

    Trầm mình
    đánh
    đổi lấy mạng sống bằng cách ngậm họng
    lại
    cấm
    tuyệt đối không được thốt ra một lời nào

    Cấm

    Im lặng là cõi lời giả dạng vô ngôn, không phải vô ngôn đích thực. Im lặng là lời lẩn trốn, tàng hình, nhức nhối, chưa phải là sự tiêu vong. Nhà thơ hướng tới mật ngôn tới cõi Đẹp vô ngôn:

    Thảng thốt
    Cội rễ lời
    Ta nghe dâu ngàn hoá bụi
    Vô ngôn từ thuở nằm nôi
    Phiêu khúc

    Và có lúc, cõi lời đã như một quá khứ xa, một thuở nào, một hồi ức vang vọng và biến tấu:

    Thuở lời, vọng tiếng chim ran
    Đò quê, mật sóng giữa đàng lá không

    Nhưng thi nhân đâu dễ thoát khỏi cõi lời, thoát khỏi cái bản thể được Chúa trời ban tặng. Trong nỗi khắc khoải nhớ hư vô, khao khát mật ngôn, nhà thơ ngồi ngó xéo vào vết nứt của im lặng để lắng nghe vọng tiếng chim ran,cố bắt lấy tiếng nói của muông thú, rồi học theo kẻ kiến tạo im lặng để diễn kịch lặp đi lặp lại, trong khi đó vẫn cố vớt vát những lời đang hấp hối để đối thoại với bông hoa mới nở – sứ giả của cõi đẹp mới khai sinh:

    nói với đóa hoa chớm nở
    lời chớm tàn
    và phủ định mọi dấu vết
    đã có từ lâu trên mặt đất

    Dấu vết

    Dù biết rằng đóa hoa ấy, cái đẹp đích thực ấy không nở ở cõi lời:

    nhưng ở bên kia chốn không lời
    đóa hoa nở

    Và cái đẹp, tình yêu đã hiện diện lồ lộ ở cõi khác, như một cứu cánh có đủ thẩm quyền bắt nhà thơ tắt tiếng:

    Ta tắt tiếng từ bao giờ không biết
    Lúc nhìn em lồ lộ ngoài hư không
    Lúc ta theo vồ vập màu chiều tà
    Và chỉ thấy bụi rơi cùng nắng lạ

    Thanh xuân

    Cõi đời vô thường, ngôn ngữ vô ích và vô nghĩa. Con người mang lời nói để làm những việc phi lý. Ngôn ngữ bị mất đối tượng, trở nên một công cụ, bị thời gian lố bịch hoá, trở nên loang lổ, nham nhở, nhạt nhòa:

    Tôi ngồi lại phân bua cùng nước cuốn
    Ưu sầu

    Kẻ kiến tạo im lặng

    Trong thơ Khế Iêm, con người mang cái ngôn ngữ bất lực, lôi thôi đi giữa một thế giới đầy khói ám, đom đóm, hoàng hôn, trắng lân tinh, đá gầm rú, một thứ địa ngục ghê rợn của Dante để mà sừng sộ, phân bua với thế giới ấy. Và để rùng mình trước những mật ngôn, mật sóng thăm thẳm vây quanh. Trên nền cảnh giới nín câm và bí ẩn đến rùng rợn đó, ngôn từ càng trở nên bé nhỏ, lố lăng và yếu ớt biết bao. Trong thơ Khế Iêm, con người giống như một tử tù đeo tảng đá ngôn từ đi rong bên lề cõi lời, muốn vượt khỏi ngục biếc của cõi lời để hướng tới tự do. Nhưng hắn không thoát nổi thời gian, không thoát nổi cõi lời vì dai dẳng trong linh hồn hắn một năng lực phục sinh của cái thế gian đang tàn tạ:

    Hãy ngồi lại nghe hơi thở tàn
    Trên đầm sen vạn màu hôn ám
    Em không hay một chiều tiễn biệt
    Ta thổi tan mất dòng lửa đầu
    Trong nôi nắng phôi pha
    Dập dồn mở lại
    Cánh chiều xưa
    Mây nước xưa

    Ưu sầu

    Thời gian hư ảo, mong manh và tàn lụi, nhưng nó chính là kẻ mai phục trong ký ức để bất kỳ sống lại. Mỗi khoảnh khắc cụ thể của đời ta có thể phôi pha, vụt mất, và con người không thể dùng ngôn ngữ để phân bua với nó, sừng sộ với nó, níu kéo nó lại, nhưng nó vẫn không mất đi vì chỉ cần ta ngồi nghe hơi thở tàn, trên đầm sen vạn màu hôn ám,chỉ cần ta cận kề với cái đẹp ám bụi của đời sống để lắng nghe chút hơi tàn của nó là thời gian đã chết sẽ lại phục sinh như một tài sản vĩnh hằng, một ngục biếc ta muốn thoát mà không thể thoát. Chính cái năng lực kỳ lạ và sức giam hãm của thời gian, sức quyến rũ của cõi đời hư nát, sức níu kéo rủ rê của tình đời nham nhở đã hủy hoại tự do của con người, khiến nó luôn dùng dằng ở biên giới của cõi đời và đạo, cõi lời và lặng im. Thi nhân không thoát được ngục biếc của thời gian và ngôn ngữ, nhưng lại luôn muốn đào thoát khỏi cõi thế, cõi lời, luôn phóng tầm mắt tìm kiếm đóa hoa nở trong cõi không lời, khát khao hòa nhập vào hư không. Vĩnh cửu với hư không và im lặng đã lây nhiễm vào dòng đời làm nát thêm thời gian, làm rã mọi hình tướng và ngôn ngữ. Đó là cái cách Khế Iêm tái tạo một thế giới làm bằng mây, khói, ánh trăng, đom đóm, lân tinhvà những lời nham nhở. Nhà thơ sau khi hủy hoại thời gian, hủy hoại thế giới lại nuối tiếc thời gian và ngôn ngữ đã tàn hơi. Anh ta ký thác những hạt cát khoảnh khắc của mình trong sa mạc, đặt những bóng người, những cuộc tiễn biệt, những chiều nắng, những đầm sen vào vũ trụ vô cùng tận, và bằng cái nhìn triết học đó, anh ta đã đánh đắm từng khoảnh khắc, hủy diệt những hình hài, khống chế ngôn ngữ, đầu độc từng ngày sống. Thơ Khế Iêm là bi kịch, nỗi đau của sự đánh mất thời gian, nhiễm độc hư vô. Chứng viễn thi siêu hình khiến nhà thơ nhìn rõ những gì vô hình ngoài thời gian, còn những gì hữu hình trong thời gian lại trở nên mờ nhạt. Do đó, cái nhìn của nhà thơ là cái nhìn hủy diệt thời gian, ghê sợ thời gian nhưng lại khát khao và luyến tiếc thời gian.

    Khế Iêm trong thơ là một thiền sư lưu luyến cùng đời sống, một quả lắc đong đưa giữa cô độc với sẻ chia, giữa đạo sĩ và người tình, giữa hủy diệt và xây dựng, giữa sự vượt thoát, đạp đổ và sự tiếc nuối, nở hoa. Cho nên, Ngục Biếc là cái tên chẳng vô tình, nó là tự thú của một người vừa muốn tự do, vượt thoát mọi ngục tù, vừa ôm giữ cái nhìn mỹ lệ hóa căn nhà ngục mình đang bị giam hãm. Cái nghịch lý sâu thẳm đó dẫn đến những cuộc phiêu lưu mỹ học oái oăm: dấn thân vào ngục tối để tìm tự do, phơi bày quyền lực hủy hoại ngôn ngữ của thời gian để cứu vớt ngôn từ, chối bỏ ngôn ngữ để đi tìm lại ngôn ngữ.

    Cái luẩn quẩn hôn phối giữa tự do và nô lệ, giữa lời nói và im lặng, giữa minh triết và mật ngôn ấy, chính là cái vòng xoáy mãnh liệt của tâm thức quanh cái lỗ đen hư vô, nó cuốn tất cả mọi hình tướng, mọi ngôn từ trong cơn xoáy tâm linh sâu thẳm, tạo nên trong nhà thơ một thứ stress thơ ca. Cái stress độc đáo và mãnh liệt ấy là cội nguồn của một thi hứng, một giọng điệu đặc biệt có một không hai: giọng độc thoại, nhấm nhẳng, cà khịa, bất cần pha chút nổi khùng bất chợt.

    Khế Iêm không mê đắm trong cuộc luân vũ ngôn ngữ kiểu Bùi Giáng, cũng không tỉnh táo trong trò Rubích ngôn ngữ kiểu Lê Đạt, mà hục hặc cà khịa với ngôn ngữ, loay hoay chối bỏ ngôn ngữ trong tư thế một thiền sư đã mấp mé ở ngưỡng cửa của đạt đạo mà vẫn luyến tiếc cõi tục lụy với đống ngôn từ đã rữa bởi những cảm quan hư vô. Phong cách của Khế Iêm là cái giọng lẩm bẩm của nhà triết học, tự cãi cọ với mình, nói những lời tối tăm không đầu không cuối, làm những động tác kỳ dị dập xóa tư duy, vừa phản ứng với những diễn biến trong thế giới lại vừa mê muội trong dòng suy tưởng của bản thân, vừa nhắc nhở mình những kế hoạch sống, vừa than thở với mình những thất bại, hoang mang, vừa reo vui hồn nhiên như trẻ thơ trước những tia chớp loé lên ở chân trời cõi Đẹp. Một cốt cách nửa người điên, nửa thiền sư.

    Nếu như Lê Đạt makeup cho ngôn ngữ, thì Khế Iêm ngược lại luôn bêu riếu ngôn ngữ, trêu chọc ngữ pháp, đùa giỡn cà khịa với thói quen cú pháp: bẻ gẫy từ ngữ, xuống dòng bất chợt, giãn dòng đột xuất ném ra những khoảng trống trêu ngươi như đào những ổ gà trên đường đi của ta. Những câu nhát gừng, lửng lơ, ấp úng, bí hiểm và những khoảng trống bất chợt nằm chắn giữa câu thơ, chính là sự hiện diện của hư vô và lặng im xuyên qua ngôn ngữ. Hư vô không chỉ thẩm thấu vào trong tư duy, cú pháp mà còn kê ngai vàng chễm chệ giữa đường đi của dòng ngôn ngữ để ta phải nhìn nhận nó, vượt qua nó. Hư vô can dự vào tồn tại, lặng im can dự vào lời, hình thức đan xen ấy chính là sự tìm tòi từ cái nhìn triết học về sự cộng sinh giữa hùng biện và câm nín, thực chất là sự lưỡng lự của thi nhân giữa thái độ chối bỏ ngôn ngữ và thái độ tôn vinh ngôn ngữ như một chất liệu thơ được triết học tái sinh. Ngôn ngữ thơ Khế Iêm như nữ tù nhân đăng quang ngôi hoa hậu trong cuộc thi người đẹp trong tù, bước lên nhận vương miện còn đeo những trang sức bằng xiềng xích, vừa nghẹn ngào vì ý thức được thân phận của kẻ mất tự do, vừa kiêu hãnh vì những vinh quang đã có trong Ngục Biếc.

    Thơ Khế Iêm luôn có lối nói nhát gừng, cấm cẳn, lẩn thẩn, lảm nhảm pha chút ngơ ngác và cáu bẳn. Dường như, thi pháp của ông luôn tạo ra bức mành mành ngôn ngữ vừa như muốn che đi cái mạch ngầm suy tư, cái vật thiêng đích thực “kiến tạo im lặng”, vừa như để lộ ra cái thấp thoáng của dòng tâm tưởng sau những mảng lời rời rạc, vô nghĩa và bất trắc. Nhà thơ cố tình làm cho ngôn ngữ trở nên lẩm cẩm, ú ớ, như muốn trêu tức ta. Thực chất là thái độ thù ghét ngôn ngữ của nhà triết học đã bộc lộ ra trong lối tu từ cà khịa và cáu bẳn của nhà thơ và cái tâm thế của kẻ sống trong đời mà ngưỡng vọng với vô ngôn, càng bồng bềnh như con đò chở đầy lời nói:

    ngậm trắng một đò lời
    với gió

    Lời trong thơ Khế Iêm cũng y như con đò trôi dạt, xoay đảo, không có đích đến, đôi khi mắc cạn trong những khúc quanh lởm chởm của từ ngữ và hang hốc bế tắc. Thơ Khế Iêm phơi ra những ổ gà ngôn ngữ, những hang hốc tư duy, những què quặt ngữ pháp cũng giống như trong những khuôn hình của phim Xích Lô mà đạo diễn Trần Anh Hùng cố tình phơi ra những dây dợ lằng nhằng cột điện, rào sắt lởm chởm mà thường các nhà quay phim khác tránh né. Nó tạo dựng một hình ảnh nham nhở, rách rưới, gân guốc. Ngôn ngữ trong thơ Khế Iêm trở thành chất liệu tạo hình, nhà thơ đục đẽo chữ, bẻ gẫy câu, để tạo nên một thứ tượng gỗ của tâm thế, của Nàng thơ, cái chất liệu và cái dáng vẻ tranh chấp nhau trong từng bài thơ. Ngôn ngữ là một thứ chất liệu chết, như mẩu thạch cao rơi ra dưới tay người tạc tượng:

    (và không ai nói với ai)
    về con âm mở hổng cửa kéo
    từng con chữ rơi
    ra môi và răng

    Rơi ra

    Tiếng nói thực chất là một xác chết:

    Tưởng rằng tiếng nói như xác ve
    Cánh chim chết giấc trên non đá
    Có biết trầm luân. Chỗ cát xoá

    Bến sương

    Từ ngôn ngữ tự trào đến ngôn ngữ tự hủy

    Phần đầu tập Dấu Quê, ngôn ngữ mới chỉ bị hoài nghi, trêu chọc và giễu cợt. Những ý tưởng Thiền hiện diện qua một ngôn ngữ còn toàn vẹn ngữ pháp, lật tẩy những cảm hứng gắn liền với một “Vũ trụ ngôn ngữ đặc trị” (Artaud). Đó là thứ thi pháp của ngôn ngữ cổ điển tự giễu mình, một thứ ngữ pháp đầy mặc cảm. Đến cuối tập “Dấu Quê”, với Ngục Biếc,ngôn ngữ thơ Khế Iêm đã nhảy vọt từ tư cách vật tải ý tưởng Thiền tới tư cách vật mang tâm thức Thiền. Đó là cú nhảy tự vẫn của ngôn ngữ đặc trị, nó tự hủy một cách từ tốn, nghiêm trang, đầy thi vị. Từ ngôn ngữ tự trào đến ngôn ngữ tự hủy là một bước nhảy vọt về thi pháp, nhờ đó nhà thơ giã từ vũ trụ ngôn ngữ cổ điển, ngôn ngữ đặc trị – với bộ complet ngữ pháp cố tình gài lệch khuy áo cho xộc xệch – để đạt tới cõi vô ngôn, cõi tĩnh mịch của Thiền sư, cõi rợn ngợp, chói chang ánh sáng của minh triết. Trong Ngục Biếc,cũng như trong một vài bài thơ có dạng thức kịch của Khế Iêm, ta thấy có một hiệu ứng thơ ca đặc biệt: nhân vật nói mà như không nói, nhiều khi nói để mà không nói, đối thoại mà như độc thoại, lên tiếng càng nhiều thì càng trở nên câm nín. Mỗi câu nói, mỗi lời hỏi đều như lìa khỏi nhau, như cô đơn tuyệt đối, và chất thơ đặc biệt toát ra từ cái bơ vơ, bối rối, hoang mang, ngớ ngẩn, vu vơ chẳng đâu vào đâu ấy của ngôn ngữ và kẻ mang ngôn ngữ. Cái không đâu vào đâu của thứ ngôn ngữ nửa đối thoại nửa độc thoại trong Ngục Biếc,có một sắc thái thi vị đặc biệt vừa nhuốm màu hiện sinh, phi lý, vừa có cái run rẩy ngơ ngác của thân phận. Những bài thơ kịch như dạng Ngục Biếc của Khế Iêm giống như mớ ngôn ngữ hỗn độn, đang chới với cố chống lại sự lìa tan, cố bám vào những bờ mong manh của trật tự ngữ pháp cổ điển, của khát vọng đối thoại, giao lưu. Và chất thơ toát lên giống như tiếng rền rỉ, nhớn nhác, rối ren của kiếp người, của chúng sinh. Càng nói càng không hiểu nhau, càng ngờ vực nhau – thảm cảnh ấy của nhân loại được Khế Iêm tái hiện sinh động trong Ngục Biếc,gợi lên một thảm trạng đầy lo âu và cô đơn. Có thể nói, Ngục Biếc,là chặng thứ hai của quá trình ngôn ngữ tự hủy trong thơ Khế Iêm. Ngôn ngữ tự hủy cũng chính là bản thể tự hủy.

    Tất cả cái ý nghĩa cổ điển, cái sắc thái thường hằng của ngôn ngữ đã trở nên đứt gẫy, và sự hiện diện của nó trong những chuỗi ký tự còn rên rỉ âm thanh kia chỉ là sự đùa cợt của thời gian, và ngôn ngữ cũng chỉ còn là một con rối lăng xăng. Tính hài của giai đoạn trước đã chuyển thành tính bi, sự đùa cợt ngôn ngữ đã biến thành sự lưu đày ngôn ngữ, vào nơi chốn vừa tự do vừa phi lịch sử. Đến giai đoạn thứ ba với những bài thơ “T.V. Ký”, “Bài Thơ Đi Tìm Bài Thơ”, “Đọc Chinh Phụ Ngâm”… thì ngôn ngữ đã trở nên những xác chết dưới chân thời gian. Nhìn vào bài thơ, ta thấy hiện lên lù lù dấu ấn của thời gian: ở “T.V Ký” là quyền uy của khoảnh khắc, ở “Bài Thơ Đi Tìm Bài Thơ” là sự ú tim giữa khoảnh khắc và vĩnh cửu, ở “Đọc Chinh Phụ Ngâm” là quyền uy của vĩnh cửu. Ngôn ngữ đã chết, nó trở thành một thành viên của ký ức, một thì quá khứ của thơ ca. Thơ Khế Iêm ở giai đoạn thứ ba chính là đám tang của ngôn ngữ, ở đó, những mẩu ngữ pháp cổ điển còn hiện diện chỉ là những mảnh hài cốt đầy bi thương, chứng tích của lịch sử. Những mệnh đề mang nghĩa rời rạc chỉ là sự dãy giụa vô vọng của ngôn ngữ trên đường rơi vào vực thẳm lãng quên.

    Vậy là, hành trình thơ Khế Iêm qua ba giai đoạn: từ sự đùa giỡn của khoảnh khắc với ngôn ngữ giai đoạn đầu, qua sự xâm hại của vĩnh cửu vào ngôn ngữ giai đoạn “Ngục biếc”, tới sự toàn thắng của thời gian với ngôn ngữ ở giai đoạn những bài thơ có tính tạo hình hiện nay – đó chính là hành trình nằm trong logic tăng kiến của tâm thức thiền và thi pháp hậu hiện đại với cảm hứng suy tư có tính thời đại về những vấn đề ngôn ngữ trải dài trong thế kỷ, qua những chiêm nghiệm suy tưởng của Heidegger, Hölderlin, Wittgenstein và Lacan. Đó là dòng thi hứng chảy xiết giữa đôi bờ ngôn ngữ và thời gian, khoảnh khắc và vĩnh cửu, trật tự và hỗn độn, lịch sử và tự do, suy lý và minh triết. Đó cũng là những đoá hoa nở từ cái bắt tay của hiện tượng luận và thiền học, tôn giáo và triết học, văn hoá phương Đông và văn hoá Phương Tây. Nếu với phương Tây “khởi thủy là Lời, bản thể của Chúa với vĩnh cửu và hư vô gói trọn trong lời Chúa, thì với phương Đông nỗi ám ảnh thời gian là thẳm sâu và thường trực. Và như vậy, hành trình thơ Khế Iêm với sự đan xen, luân phiên và chuyển hoá của những khắc khoải về thời gian và ngôn ngữ cũng chính là hành trình về nguồn tâm linh. Quá trình thi sỹ tự vẫy vùng giải thoát khỏi “ngục biếc” của ngôn ngữ cũng là quá trình tìm kiếm và tái tạo những “dấu quê”.

    Nếu không nhìn nhận thơ Khế Iêm trong cả hành trình, thì không thể nhìn ra cái định hướng về nguồn đó, vì, nếu xét về hình thức thuần túy thì những bài thơ có tính hội họa đã có nhiều trong thơ hậu hiện đại Mỹ và phương Tây. Xem xét cái logic tương tác giữa ám ảnh thời gian và ngôn ngữ trong thơ Khế Iêm chính là giải mã các biến thiên về cảm thức và thi pháp. Theo logic đó, ta có thể tiên tri về một chặng tới của thơ anh. Phải chăng, đó sẽ là chặng phục sinh của ngôn ngữ trong một cảm hứng “hồi xuân” như bất kỳ ai đã qua tuổi “thanh xuân”?

    Chúng ta chờ đợi sự kiểm chứng với logic ấy trong những sáng tác mới của Khế Iêm.

    Trích "THƠ KHÁC" 

    CÁCH ĐỌC

    Jeffrey Ripple, Figs, 1999 Courtesy Hackett-Freedman Gallery, San Francisco
    Jeffrey Ripple, Figs, 1999 Courtesy Hackett-Freedman Gallery, San Francisco
    Nguyễn Hoàng Nam

    Ba con ếch, từ một đám sậy trong đầm, nhìn qua cửa sổ thấy cái tủ lạnh đựng bia trong nhà. Một con khởi đầu bằng giọng ếch “Bợợợt”; con kế bên tiếp theo “waaaiz”; con chót kết thúc “zơơơ.” Cái này không phải cõi siêu thực, khi vô thức chạm trán với ý thức, nảy ra cái merveilleux quái gì đó. Đây là quảng cáo bằng graphic của máy điện toán. Cứ đàn bà đẹp mặc bikini tay cầm chai bia hoài cũng chán, hãng Budweiser bịa ra trò mới cho vui. Mà quảng cáo là dĩ nhiên lặp đi lặp lại nhiều lần trên truyền hình, để ngấm vào đầu chúng ta hiệu bia và cái thông điệp ngầm “Ếch mà còn thích bia Budweiser huống gì người.” Hay có thể xỏ lá hơn, nếu chúng ta nghĩ kỹ: “Người mà không thích bia Budweiser thì còn thua ếch nhái.”

    Đó là chuyện quảng cáo. Mà quảng cáo thì cái gì cũng được, miễn là tăng số tiêu thụ và đừng bất hợp pháp. Còn thơ? Trước hết, bài thơ phải thế nào? Đưa ra vấn đề có nghĩa là đã đặt giới hạn, trong khi thơ thật sự không nằm trong một giới hạn nào. Chúng ta phải bắt đầu từ “bài thơ là cái gì và thế nào cũng được” để đặt câu hỏi cho đúng: khi hoàn toàn tự do trong thể loại và cách diễn đạt, tác giả đã chọn lựa thế nào và chọn lựa cái gì? Và từ đó, chính người đọc chọn lựa cái gì?

    Như vậy bạn đọc quen với lối đọc thơ Việt Nam lâu nay dễ gặp trở ngại. Đối với bài “TV Ký” bạn có thể cảm thấy khỏi cần đọc, khỏi cần chiêm nghiệm chữ nghĩa có gì ghê gớm không, ý tứ có gì sâu sắc, có bộc lộ một nỗi đau mơ hồ nhưng vĩ đại nào không. Phản ứng đầu tiên của bạn là liên tưởng ngay tới quảng cáo của hãng bia, mà ông Khế Iêm đã ngang nhiên chôm gần như nguyên con và tỉnh bơ thẩy nó ngay trước mặt bạn. Tác giả rõ ràng đã lợi dụng trắng trợn sự phổ biến của quảng cáo bia Budweiser. Bạn có thể cảm thấy khó chịu vì tác giả có vẻ không biết xấu hổ là gì, có vẻ chẳng đếm xỉa tới sự trông đợi một thái độ nghiêm trọng, cao cả mà người Việt Nam thường xem như đi đôi với một con người chữ nghĩa, và hơn nữa, một chủ bút của một tạp chí văn chương. Bạn càng thấy khó chịu hơn khi thấy những dòng chữ nhỏ phía dưới dường như chứa đựng nhiều hơn bài thơ phía trên, nhưng lại không phải là “ghi chú” để làm rõ nghĩa một điều gì, mà là “cách dùng” như thể bài thơ là một thứ đồ vật thường ngày, như máy hát, bàn ủi, thuốc cảm, áo mưa v.v.

    Tôi đang cố gắng lựa lời để khỏi làm mích lòng bạn: Nếu bạn có những triệu chứng vừa kể thì cách đọc thơ của bạn đã lỗi thời, và ngay chính sự lỗi thời đó cũng chẳng có một nền tảng lý luận vững vàng gì. Bạn thử suy nghĩ về những điều tôi trình bày. Thứ nhất, thơ không còn là báu vật làm trang sức cho địa vị của những quan huyện, ông đồ, và những người du học từ Pháp về (tôi chẳng rõ những người này đã học được gì; thử đặt một câu hỏi căn bản nho nhỏ: nếu chúng ta chịu nhiều ảnh hưởng thơ Pháp cuối thế kỷ 19, tại sao gương sáng của Rimbaud không thấy nhắc đến, tại sao chúng ta có quá nhiều người chẳng có điều gì để nói mà không chịu ngưng viết?). Thứ hai, người làm thơ không dại gì muốn làm thượng đế.

    Sự tự nhận một sứ mệnh cao cả để nhìn ra cách cứu rỗi nhân loại là việc vô ích. Nhiều kẻ có tài thiên bẩm đã thất bại, như Rimbaud đã thất bại và Breton đã thất bại (lại thêm một câu hỏi về bài học từ ảnh hưởng thơ Pháp); đối với những người có tí năng khiếu lai rai, nó là trò kiêu ngạo tự đánh lừa, mà kết quả chỉ là sự lãng phí thời giờ học hỏi và rèn luyện. Thứ ba, bạn có hiểu “lãng mạn” là gì không? Nhiều nhà thơ, mà bạn hằng tôn sùng một cách dễ dàng và vô điều kiện, không thể trả lời suông sẻ câu hỏi này. Cái quan niệm thơ mà bạn đã quen thuộc có một tiến trình kỳ cục. Nó bắt đầu, trễ khoảng 50 năm, bằng ảnh hưởng của thơ Pháp cuối thế kỷ 19, thời kỳ hậu Lãng Mạn khởi đầu Tượng Trưng, và không hiểu sao ở Việt Nam ngang nhiên thành “lãng mạn.” Thật ra nó gần như chẳng có gì Lãng Mạn, rất ít hậu Lãng Mạn và rất ít Tượng Trưng, khi chúng ta so sánh nó với cái gốc của những phong trào này. Phần lớn nó là sự phóng đại những nỗi đau không có thật, những lời khen ngợi nữ sinh trung học một cách mơ hồ từ những ông trời con tự xưng là “ta” như trong truyện kiếm hiệp và phim bộ. Những thứ này lặp đi lặp lại hoài thành ý nghĩa của thói quen, và bài thơ chỉ còn là một màn tranh tài của chữ – ai cũng đã thuộc lòng cốt truyện tuồng cải lương rồi, tới chỉ để coi đào kép diễn xuất. Khoảng cuối thập niên 60, trễ khoảng 30 năm, tự nhiên nó nhảy phóc qua lấp ló ở ngưỡng cửa Siêu Thực và đứng thập thò mãi ở đó tới bây giờ. Càng kỳ cục hơn là suốt nửa thế kỷ mù mờ vừa kể, lý luận phê bình rất nghèo nàn, gần như không có. Cho nên những điều trên, và cái quan niệm thơ kèm theo, mới thật sự là khó hiểu. Còn thơ kiểu “TV Ký” thì dễ hiểu thôi. Bởi vì nó có truyền thống khá rõ ràng để chúng ta bắt đầu.

    Trước hết là chuyện ông Tristan Tzara trộn chữ trong một cái bị rồi nhắm mắt bốc ra xếp thành bài thơ. Chúng ta dễ chú ý vào bài thơ và lầm tưởng nó là trò đùa. Thật ra phần lớn ý nghĩa nằm trong cách tác giả làm bài thơ. Bài thơ chỉ đóng vai trò kích thích người đọc tìm hiểu nó được làm thế nào. Ông Tzara xốc chữ để nói rằng tất cả trong cuộc đời đều tùy thuộc vào may rủi, thượng đế đã chết, trò trẻ nít thú vị hơn những kinh nghiệm làm con người khô cứng ù lì v.v. Chắc bạn cũng đã từng nghe những thứ linh tinh này ở đâu đó rồi. Nhưng điều chúng ta cần nắm bắt là cách làm cũng là một phần của bài thơ, và cách làm có thể là nơi sáng tạo nhất của tác giả.

    Kế đến là chuyện ông Marcel Duchamp gửi cái bồn tiểu đi triển lãm. Quan niệm nghệ thuật hiện đại được nhấn mạnh: nghệ thuật không chỉ ở bảo tàng viện, hay trên những trang “cảo thơm,” mà chúng ta nên khám phá những điều thú vị nơi những đồ vật thường ngày quanh chúng ta – cái đẹp là do mỗi chúng ta tự chọn. Sự sáng tạo không có gì ghê gớm, ai cũng làm được cả, vì nó không ngoài sự tự đi tìm niềm vui của mỗi tâm hồn, sự đi tìm ý nghĩa chủ quan trong một thế giới vốn vô nghĩa.

    Như vậy dễ lên đài danh vọng quá? Không hẳn. Một mặt, ông Tzara là người đầu tiên xốc chữ, cũng như ông Duchamp là người đầu tiên gửi cái bồn tiểu đi triển lãm. Nếu tôi, chẳng hạn, cũng xốc chữ y vậy thì thật là thừa, nghĩa là tôi chẳng nói thêm được gì. Tuy nhiên, nếu tôi thích xốc thì tôi xốc cái khác. Mặt khác, bài học cho chúng ta ở đây không hẳn là chúng ta phải cố làm những thứ giật gân để nổi tiếng, mà là ở cái tinh thần để ý cuộc đời quanh mình để tập nhìn nó một cách khác đi, lạ hơn, thú vị hơn. Đó chính là cái thi sĩ ở mỗi chúng ta.

    Thì đó là truyền thống căn bản (mà cái quan niệm thơ của bạn đã lờ một cách ẩu tả và nhảy phóc sang đứng thập thò hoài ở cửa Siêu Thực, như đã nói ở đoạn trên) nhưng mà như vậy thì “TV Ký” muốn nói gì? Hay lặp lại lời của mấy ông Dada? Bạn đừng nóng. Trước hết, thơ ông Tzara từ thời 1916, cái bồn tiểu của ông Duchamp năm 1919, bài thơ của ông Khế Iêm năm 1996, được kể như thuộc thời hậu hiện đại, dĩ nhiên phải nói nhiều điều hơn. Sự áp dụng quan niệm nghệ thuật thời hiện đại dù sao vẫn giới hạn trong cái chủ quan (và sự tự tôn) của những cường quốc: “quốc tế” thật ra chỉ là Nga, Mỹ, và Âu Châu. Trên bình diện xã hội nó càng thu hẹp hơn. Vẫn lấy Dada làm điển hình, những bước khai phá của phong trào này dù sao vẫn chỉ là phản ứng của trí thức cấp tiến Tây Phương đối với sự ù lì trong cái mã hào nhoáng của xã hội trung lưu Tây Phương lúc đó, mà đại diện văn hóa là Ấn Tượng – tức là tất cả đều chỉ là chuyện của những anh đàn ông da trắng. (Thí dụ: ông Duchamp triển lãm bồn tiểu thì được hiểu, còn chẳng hạn bà TTKh.1 gửi cái cầu cá tra của chúng ta đi thì không. Những thứ được hô hào là “kinh nghiệm chung của nhân loại” thật ra là cái nhìn của đàn ông da trắng.) Bị chỉ trích kịch liệt trong thời hậu hiện đại, sự độc tôn này đã phai dần trong những năm gần đây để nhường chỗ cho quan niệm chung là tôn trọng những tiếng nói đa văn hóa và đa phái tính –quốc tế thật sự là quốc tế. Tiếng nói và kinh nghiệm của thế giới thứ ba, của các sắc dân thiểu số ở Tây Phương, của phụ nữ, và của thành phần đồng tính luyến ái, đã thành những truyền thống rõ nét trên văn đàn quốc tế.

    Như vậy, mặc dù có thể sử dụng những thể loại và lý thuyết có truyền thống từ Tây Phương, bản sắc và tinh thần của chúng ta vẫn được thể hiện. Bởi vì chúng ta nói chuyện của chúng ta, theo kinh nghiệm của chúng ta, không phải nhắm mắt lặp lại và ca ngợi kinh nghiệm của các tên tuổi lớn Tây Phương như thế hệ trước đã làm ở Việt Nam. Chúng ta có thể hiểu “TV Ký” là sự châm biếm đời sống tinh thần tê bại, đầy lừa bịp quảng cáo của người sống ở Tây Phương, nhưng con ễnh ương lại là biểu tượng của Việt Nam. Tức là bài thơ cũng có thể là một loại “xa quê hương nhớ mẹ hiền”: xem ếch trên TV nhớ con ễnh ương dưới ao xưa. Một người chủ trương hòa hợp hòa giải có thể nghĩ rằng “ễnh ương và bia còn đồng điệu được, huống gì là … quốc gia và cộng sản.” Một người bảo thủ có thể chửi tác giả dám đem bản sắc dân tộc ra đùa giỡn (dù nó chỉ là … con ễnh ương.) Hay bài thơ có thể là một cú xỏ lá thi ca Việt Nam: ai cũng nghĩ mình là cậu ông trời, nhưng thực ra toàn là ếch (ngồi đáy giếng), ễnh ương (mồm rỗng kêu to), chàng hiu (núp trong bóng tối nhảy ra hù dọa những người yếu bóng vía).

    Có thể phức tạp: sự kết hợp và va chạm giữa quảng cáo và bài thơ, hình ảnh thật và hình ảnh TV và hình ảnh trên trang giấy, tiếng kêu của ếch giả trên TV và âm thanh thầm của ễnh ương trong ký ức – những nguồn động cơ khác nhau ảnh hưởng đến sự hình thành ý nghĩa từ mọi thứ xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, mà chúng ta không để ý, hoặc không có thời giờ, để phân tích.

    Cũng có thể rất đơn giản: bợm nhậu xem bài thơ thấy thèm bia lạnh và đùi ếch chiên bơ. Và v.v. và v.v.

    Tới đây chúng ta nhận thấy: bài thơ không quan trọng, tác giả còn kém quan trọng hơn, điều quan trọng nhất là người đọc và cách đọc. Sự sáng tạo của mỗi chủ quan không có nghĩa là mỗi người một cõi, mà đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thấy là luôn luôn có những lối nhìn khác với chủ quan của mình. Và đó cũng là hy vọng của chúng ta trong thời hậu chiến.

    Mùa Thu 1996
    1. Nhà thơ TTKh. làm thơ khoảng thập niên 1930-40.

    “Ta Về’, sẽ về đâu?

    Ngu Yên

    (Cách đọc: Nếu bạn chỉ muốn đọc để giải trí, thì đừng đọc phần luận chú. Nếu bạn muốn vào sâu, thì đọc phần luận theo thứ tự mỗi khi thấy đính hiệu.Vi dụ: [L1] … [L4].)

    126 câu thơ 7 chữ, xứng đáng gọi bài thơ này là một trường ca. Một trong vài bài thơ dài được phân tích và phê bình nhiều lần bởi một số nhà phê bình chuyên và nhiều nhà bàn thơ tản mạn mang tính nghiệp dư. Hầu hết là khen ngợi sau khi giải thích những ý nghĩ tương đối dễ nắm bắt và những ngụ ý, ẩn dụ quen thuộc tạo nên sự dễ dàng cảm nhận.

    Đó là bài thơ “Ta Về” của nhà thơ Tô Thùy Yên

    Nếu là một bài thơ có giá trị thật hoặc có giá trị bị hoài nghi thì công việc phân tích phê bình bài thơ đó sẽ được tiếp tục qua nhiều thế hệ, ví dụ như chúng ta tiếp tục tìm hiểu và phê phán “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm, hoặc cao hơn là “Kiều” của Nguyễn Du. [L1]

    Trường hợp “Ta Về”, liệu các thế hệ về sau có thỏa thuận với những phê phán của thế hệ cùng thời với tác giả? Kinh nghiệm văn học cho thấy, những phê phán giữa những người cùng thời, tuy có trải nghiệm giao du trực tiếp, có kiến thức lâm sàng, có thể nói là biết nhiều bí mật, nhưng thông thường khi bước vào phê bình văn học, chữ nghĩa bỗng dưng sẽ thiếu thẳng thắn và ít trung thực, đôi khi có người phê bình nịnh, đọc mà thương ôi. Sao họ không hiểu: thời gian sẽ phanh phui sự thật? Nói thật nghen, giả dối trong sáng tác thì có thể chấp nhận, nhưng giả dối trong phê bình thì “forget not forgive.” (Quên thì có thể nhưng tha thứ thì không.)

    Tôi không có ý như nhà thơ Xuân Diệu nói: Tôi là con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi. Tôi muốn xét lại bài thơ “Ta Về” như một con chim hót vì nó là con chim thì phải hót. [L2]

    126 câu thơ của “Ta Về” không phải là dài vì không ai đánh giá bài thơ theo chiều dài và số đông của chữ, nhưng liệu có dư thừa không? Hoặc thiếu?

    Ý tưởng và tứ thơ có gì mới lạ hay chỉ là sự lập lại với sáng kiến chưa đủ cánh bay để trở thành sáng tạo?

    Sự độc đáo của thơ nằm ở đâu trong bài thơ này?

    Liệu bài thơ được chiếu cố vì vị trí đắc địa trong thời gian, không gian, bối cảnh, lòng người hay vì giá trị thi ca?

    Liệu khi năm tháng qua xa dần, “Ta Về” được các thế hệ trẻ nhìn như một bài thơ đời dài hay chỉ là “Một thuở trần gian bay lướt qua”?

    Hình mạo của “Ta Về”.

    Hai câu thơ đầu tiên dẫn vào phần chính của bài thơ mang dạng câu mưỡu:

    Tiếng biển lời rừng nao nức giục
    Ta về cho kịp độ xuân sang.

    Hai câu mở ra nội dung với hai ký hiệu đáng quan tâm. “Ta về” là cụm từ nhấn mạnh và sẽ được sử dụng trùng điệp như đầu mối để tỏa ra tứ và ý thơ.

    Trong khi “xuân sang”, theo nghĩa đen, tức là người đó đang trở về vào cuối mùa đông, đang cố gắng đi sao cho kịp mùa sang xuân. Nhưng ở nghĩa ngụ ý, “xuân sang” biểu tượng cho điều gì? Cụm từ này nằm ngay ở mưỡu giới thiệu. Dù cố ý hay vô tình, nhà thơ cho người đọc lý do tìm hiểu “xuân sang” như biểu tượng hay ẩn dụ hay là một điều gì chủ yếu để tác giả xây dựng bài thơ. Nếu “xuân sang” là ngụ ý thì bài thơ này gây ra sự tò mò, có khả năng thu hút người đọc tiếp tục tìm hiểu, thủ thuật này đóng góp vào phần tăng giá trị cho bài thơ. Nếu “xuân sang” chỉ ở nghĩa đen, thì bài thơ kém đi chất sáng tạo.

    Hình mạo một bài thơ nằm ở cấu trúc và thuật truyền đạt. [L3] Bất kỳ bài thơ nào cũng có cấu trúc riêng của nó. Cấu trúc đó do tác giả chủ ý xây dựng hay tự nhiên viết mà thành hình từ thói quen theo truyền thống hoặc theo tiềm thức. Tương tựa như dựng truyện và kể chuyện.

    “Ta Về” có cấu trúc tự nhiên và truyền thống. Sự tình xảy ra theo quá trình của một người đàn ông hồi hương sau một thời gian xa cách quê nhà, trải nhiều sóng gió, nay trở về, gặp lại người cũ, cảnh xưa với tâm sự bi quan và một nhân sinh quan chán nản buông thả. Không tìm ra một câu thơ nào diễn đạt nỗi hy vọng hoặc mong chờ một tương lai ánh sáng. Hy vọng luôn làm bài thơ mở ra phần kết, cho người đọc những gì để tiếp tục mong chờ, suy nghĩ. Đối với một bài thơ có kết thúc đóng hoặc chìm, phải có một nội dung, một thân thể với khả năng quyến rũ, tạo sức thú vị nổi bật cho người đọc. “Ta Về” có một kết thúc chìm. Không lôi cuốn được sự tiếp tục của người đọc.

    Ta về như hạc vàng thương nhớ
    Một thuở trần gian bay lướt qua.
    Ta tiếc đời ta sao hữu hạn,
    Đành không trải hết được lòng ta.

    Hết. Không còn gì nữa. Tác giả đã chấm dứt tâm sự. Người đọc có thể cảm giác ngậm ngùi. Người đồng cảm có thể vấn vương lâu hơn rồi thôi.

    Phần kết của một bài thơ rất quan trọng vì chữ nghĩa đó, lời lẽ này, là những dòng thơ cuối cùng mà người đọc dễ ghi nhớ và dễ bị ám ảnh.

    “Ta về” tác giả sử dụng cụm từ này để mở đầu cho mỗi đoạn thơ. Bài thơ ngoài trừ hai câu mưỡu, tiếp theo là mười lăm đoạn thơ, mỗi đoạn có tám câu và bốn câu thơ kết, cũng mở đầu bằng cụm từ “Ta về.” Sự lập lại “Ta về” củng cố chủ đề “sự trở về” một cách mạnh mẽ. Như một cách đóng đinh giữ chặt sự nối kết giữa lưu lạc và nguồn cội, giữa bể dâu và tổ ấm. Hỏi thật nghen, tại sao bạn nhớ bài thơ “Ta về”? Có phải vì bạn phải đọc, phải nghe nhiều lần cụm từ “Ta về”?

    Tâm tư của “Ta Về”.

    Tôi nghĩ, tuy “Ta Về” không có một kết thúc bắt mắt nhưng có thân bài, nội dung lôi cuốn một cách đằm thắm và chiêm nghiệm. Làm cho người đọc xao xuyến vì cảnh ngộ, nhất là những người đọc có cùng hoàn cảnh hay chuyện đời tương tựa. Đồng thời, là một văn bản văn chương có trình độ thẩm mỹ cao. Ai mà không cảm được: Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng / Trọn đời nỗi nhớ sáng không nguôi. “vết phỏng?” “lưu hồn?” ‘nỗi sáng nhớ?” có cách nào diễn đạt hay hơn không?

    Hay là:

    Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà!
    Tình xưa như tuổi già không ngủ,
    Bước chạm khua từng nỗi xót xa.
    Điểm hay trong sáng tác.

    Hầu hết những ai đọc bài thơ này từ một độc giả bình thường đến nhà phê bình chuyên nghiệp, tôi chắc họ sẽ đồng ý với nhau, đây là một bài thơ đầy cảm xúc. Nhiều cảm xúc hơn những bài thơ cùng thể loại. [L4]

    1- Cảm xúc.

    Có nhiều đoạn, nhiều câu thơ gây cảm động. Tâm sự riêng trở thành tâm sự chung, chia sẻ và đồng cảm một cách mạnh mẽ. [3] Một số tứ thơ tuyệt, vừa đẹp, vừa xúc động, như:

    Ta về một bóng trên đường lớn.
    Thơ chẳng ai đề vạt áo phai…
    Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
    Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.
    Ta gọi thời gian sau cánh cửa.
    Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu.
    Ta nghe như máu ân tình chảy
    Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.
    Ta về như đứa con phung phá
    Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu.
    Mười năm, con đã già như vậy.
    Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu…

    Một số hình ảnh có khả năng tạo sự ám ảnh. Không bằng những ý tưởng sâu thẳm nhưng bằng phong cách hành văn cùng ngữ pháp cao tay ấn, tạo ra tứ, hình và ý gây xao xuyến, thú vị, truyền cảm được nét và chất đẹp của thơ:

    Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
    Ruột mềm như đá dưới chân ta.
    Ta về như tứ thơ xiêu tán
    Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
    Đau khổ riêng gì nơi gió cát…
    Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm
    Ta nhặt mà thương từng phế liệu
    Như từng hài cốt sắp vô danh

    2. Ẩn dụ, hoán dụ, biểu tượng, ngụ ý.

    Về mặt ẩn dụ, là trọng điểm của thơ. Có thể nói: Thơ là ẩn dụ (bao gồm hoán dụ, biểu tượng, ngụ ý.) “Ta Về”, cơ bản là bài thơ tâm sự, kỹ niệm, mang tính hiện thực, lãng mạn, thể hiện chất thực tế: Ta về một bóng trên đường lớn / Ta về qua những truông cùng phá / Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ / Một đời được mấy điều mong ước / Người thức nghe buồn tận cõi xa / …v…v… Đồng thời chen lẩn những ẩn dụ, hoán dụ, biểu tượng, ngụ ý và điển tích.

    – “Thơ chẳng ai đề vạt áo phai,” dụng ý từ câu ca dao khuyết danh: Mình về ta chẳng cho về, ta nắm vạt áo ta đề câu thơ.

    – “Làng ta, ngựa đá đã qua sông” dụng tích con ngựa đá bên dòng sông Vĩnh Lại, do Trạng Trình dựng lên với câu sấm, khi nào ngựa đá qua sông, thì dân làng Vĩnh Lại sẽ công danh hiển hách. Đến đời Hậu Lê, quả thật ngựa đá qua sông. Nhưng kết quả dân làng phò nhà Lê bị quân Tây Sơn, Vũ Văn Nhậm tiêu diệt. Mang hình ảnh dân miền Nam bị thảm họa bởi nhà cầm quyền miền bắc.

    – “Ta về như đứa con phung phá,” dụng tích trong Thánh kinh, đứa con hoang đàng trở về.

    – “Con gẫm lại đời con thất bát”, dụng ý từ câu: Thiên hạ bất chi như ý sự, thập thường cư thất bát.

    – “Ta về như nước Tào Khê chảy,” dụng ý suối Tào Khê, trong câu: “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn, Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ”.

    – “Ta về như hạc vàng thương nhớ.” dụng tứ Hoàng Hạc Lâu.

    Ngoài trừ những câu thơ sát tính hiện thực, hầu hết các câu thơ còn lại đều là ẩn dụ hoặc ngụ ý.

    Ẩn dụ văn chương là phẩm chất của thơ. Là một biện pháp tu từ dùng tên của một sự vật, hiện tượng này để gọi tên một sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng về đặc điểm, tính chất nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho cách diễn đạt. “Gợi cảm” là ký hiệu quan trọng nhất của ẩn dụ. Nếu không gợi được cảm thì gợi ý cũng chỉ khô lạnh vô tích sự trong thơ.

    – “Mười năm, mặt xạm soi khe nước,
    Ta hóa thân thành vượn cổ sơ”
    – “Cám ơn hoa đã vì ta nở.
    Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.”
    – “Lời thề truyền kiếp còn mang nặng
    Nên mắc tình đời cởi chẳng ra.”
    – “Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng
    Chờ anh như biển vẫn chờ sông”
    ….. vân …vân …

    3. Ngôn ngữ truyền đạt.

    Điểm mạnh và giá trị

    trong “Ta Về” là phong cách truyền đạt của nhà thơ Tô Thùy Yên, cho thấy trình độ ngôn ngữ thơ và khả năng sáng tạo thể hiện qua chữ nghĩa.

    Không cầu kỳ, không khó hiểu, chữ nghĩa đến thoải mái, sáng sủa và đẹp. Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ / Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ , nghe tàn cát bụi tháng năm bay / Cảm ơn hoa đã vì ta nở, Thế giới vui từ mỗi lẻ loi / …v …v … Văn học thường tranh luận, có ngôn ngữ thơ hay không? Đa số câu trả lời là thơ xưa có, thơ nay không. Nhưng nếu đọc “Ta Về” thì rõ ràng tài năng của nhà thơ Tô Thùy Yên âm thầm trả lời: Vâng, có một loại ngôn ngữ dành riêng cho thơ.

    Điểm không hay trong sáng tác

    Đây là phần nhạy cảm nhất trong cõi phê bình của những tâm trí chạy trốn sự thật nhưng họ không biết rằng, phê bình văn học không tìm đến sự thật, không nhất thiết nói đúng là đúng, nói sai là sai, theo kiểu lấy dao viết văn lên đá như Phùng Quán. Không, phê bình văn học chủ quan và trung thực với chủ quan. Thà thành thật nói sai hơn là nói nịnh, nói dối. Có bao nhiêu nhà phê bình bị thiến như Tư Mã Thiên?

    Phê bình văn học và nghệ thuật có nhiệm vụ sáng nhất là vạch ra những mù mờ, những gì có khả năng lầm lẫn cho người đọc, người thưởng ngoạn được thấy rõ hơn, được cảm thụ tốt đẹp hơn về đối tượng. Phê bình văn học không có nhiệm vụ khen chê mà chỉ trung thực trình bày bằng khả năng hiểu biết về học thuật, cảm thức, luận lý về tác phẩm.

    Khả năng hiểu biết? Ai dám nhận mình biết tất cả? Vì vậy, nếu là chim thì phải hót, nếu là quạ, thì phải kêu những âm thanh khó nghe.

    1- Cảm xúc trong “Ta Về”

    là giá trị nổi bật của bài thơ. Cảm xúc này thể hiện qua tứ, ý, hình, và chữ nghĩa. Tuy nhiên, trong “Ta Về” có rất nhiều hình ảnh, ý tứ lập lại, đã được sử dụng mỏi mòn, cho dù thay đổi bằng chữ nghĩa khác, ý nghĩa và giá trị tứ thơ vẫn quá quen thuộc, khó mang đến sự thú vị của sáng tạo thơ. Ví dụ như: Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ / Khách cũ không còn, khách mới thưa … hoặc: Núi lở sông bồi đã lắm khi / Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau / Nhiều tứ-hình thơ như vậy thường tạo ra nhàm chán. Hình ảnh mái đầu sương điểm thấy trong thơ tiếng Hán của Nguyễn Du; hình ảnh hạc vàng bay không trở lại, thấy trong Hoàng Hạc Lâu; Phải công nhận, nhân sinh quan về đời sống của đa số người Việt bị ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng và triết lý Trung Hoa. Đa số người Việt ít yêu thích động não ý tưởng và tư duy vì vậy vấn đề cập nhật với tư tưởng thế giới ngày nay của người Việt rất sơ sài. Không biết thì không thể sáng tác cái không biết. Nói chung, không có mấy sáng tạo đáng giá trong “Ta Về”. Mới và lạ không thấy trong “Ta Về”. Nhà văn Murakami định nghĩa sự độc đáo là sự mới lạ của riêng mình. Và sự độc đáo là giá trị cao nhất của sáng tạo. Sáng tạo là giá trị cao nhất của sáng tác. Tôi thực sự không thấy nét độc đáo đó trong “Ta Về.”

    2- Cấu trúc trong “Ta Về”

    chuẩn trên phương pháp cân phương với vần nhịp êm ả, đều đặn. Có ưu điểm phù hợp với khí hậu buồn bã, đau lòng, cảm động … phù hợp với ý và tứ thơ. Đồng thời diễn đạt được tình cảm và ý nghĩ của tâm trí người thất thế.

    Sự lập lại của cụm từ “Ta về” và nhịp phách đều đặn của mỗi câu 7 chữ, của mỗi đoạn 8 câu, của âm bằng trắc xen kẻ ở cuối mỗi câu và của cước vận, không cho phép bài thơ có được những biến chuyển trong khí hậu, không thể hiện được những bất ngờ gây ngạc nhiên, không thay đổi được tốc độ trong quá trình của bài thơ. Bài thơ mất đi khả năng linh động và sống động. Sử dụng thể thơ truyền thống 7 chữ vần nhịp cần phải có một số tứ thơ mới lạ, hoặc hình ảnh nổi bật, hoặc ý thơ khác thường để dẫn đưa người đọc một cách lôi cuốn.

    Đọc “Ta Về”, nếu đọc lớn tiếng, nếu đọc thâu vào băng rồi nghe lại, sẽ nghe ra sự êm ả, vần điệu, đều đều, nếu không chú tâm thu hút những hình ảnh, ngữ pháp và cú pháp, bài thơ có cơ hội bị bỏ dở giữa chừng. Các bạn có thể cãi rằng, bài “Ta Về” sáng tác vào tháng 7 năm 1985, tất nhiên nhịp điệu và không khí phải lỗi thời.

    Không. Có những bài thơ trước đó, thậm chí làm trong thể thơ cũ kỹ Lục bát mà mỗi lần nghe vẫn rung động.

    Bài nào?

    Đọc lớn tiếng nghe mới thích:

    – “Đêm mưa làm nhớ không gian,
    Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…
    Tai nương nước giọt mái nhà
    Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn.
    Nghe đi rời rạc trong hồn
    Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi…
    Rơi rơi… dìu dịu rơi rơi…
    […]

    (Buồn Đêm Mưa. Huy Cận sáng tác 1940.)

    3- Quên hay thiếu sót?

    Khi mở đầu, chúng ta quan tâm đến cụm từ “xuân sang”. Nhân vật chính trong bài thơ hối hả trở về cho kịp “độ xuân sang.” Xuân sang là biểu tượng gì gì? Ngụ ý gì?

    Đọc suốt bài thơ, không tìm ra câu nào, chữ nào cho thấy xuân sang là ước mơ gì? Là hy vọng nào? Chỉ thấy “Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ.” Thậm chí không phải là cuối đông, cần gì hối hả cho kịp độ xuân sang, dù đi bộ? Như vậy “xuân sang” không phù hợp vào đâu cả, nghĩa đen lẩn nghĩa bóng. Tác giả đưa cụm từ “xuân sang” vào câu mưỡu giới thiệu, để làm gì? Hay đây là một sơ suất? Hay là thiếu sót, quên giải quyết?

    4- Nhất quán và sự dư thừa

    “Ta Về” là bài thơ diễn tả tâm sự, như chúng ta biết, của một người tù đang hồi hương. Vì vậy hầu hết các đoạn thơ đều truyền đạt về cảm giác, cảm xúc của hồi ức và của phản ứng với hoàn cảnh. Phạm vi diễn đạt khá bị giới hạn. Do đó, tình cảm của nhân vật chính dễ bị lập lại dưới những hình thức, hình ảnh, chữ nghĩa khác nhau, dễ dẫn đưa đến sự dư thừa. Tinh thần nhất quán phải được kiểm tra sau khi bài thơ hoàn tất, cần một thời gian để tự biên tập.

    Muốn biết dư thừa hay không, chỉ cần lấy đoạn thơ, câu thơ đó ra khỏi bài thơ mà ý nghĩa và giá trị của tổng thể không bị ảnh hưởng, thì đúng là thừa.

    Ví dụ:

    Ta về như sợi tơ trời trắng
    Chấp chới trôi buồn với nắng hanh.
    Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng?
    Phải, ôi vàng đá nhắn quan san?
    Lời thề truyền kiếp còn mang nặng
    Nên mắc tình đời cởi chẳng ra.
    Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ.
    Mười năm, ta vẫn cứ là ta.

    Ý và tình cảm của đoạn thơ này sẽ được lập lại ở những đoạn phía sau, nhưng không hay bằng. Không có đoạn thơ này, bài thơ không mất mấy nhưng bù lại bớt lê thê.

    Đánh giá tổng thể.

    Nhìn chung, bài thơ “Ta Về” có một số khuyết về tác thuật, cần được quan tâm, tuy nhiên năng lượng cảm xúc của bài thơ này vượt lên và đạt mức cao độ, khiến cho những lỗi về kỹ thuật hoặc nghệ thuật không còn là mối quan tâm của thưởng ngoạn, cho dù vẫn là những khó khăn cho văn học.

    Trong thời đại của tác giả, “Ta Về” được chấp nhận rộng lớn vì bối cảnh xã hội và chính trị. Có thể nói, có bao nhiêu người lính miền nam bị đi tù cải tạo, thì có bấy hiêu người yêu mến và ủng hộ “Ta Về.” Có bao nhiêu vợ con, bằng hữu của những tù nhân chính trị, sau bao nhiêu năm tù được được thả ra, là bấy nhiêu người đau đớn với “Ta về.” Có bao nhiêu người chống cộng nhiệt huyết, là có bấy nhiêu người ngây ngất với “Ta Về”. Họ đều rung cảm với chấn thương không chỉ cá nhân mà bao gồm cả xã hội. Họ thành thật run lên với : Ta về, một bóng lẻ loi trên đường lớn / trở về như bóng chim muộn màng / cúi đầu tóc bạc màu sương / trở về như bóng ma hờn tủi / trở về không trải hết được lòng.

    Sự đồng cảm rộng rãi đối với “Ta Về” khiến sự thành công của bài thơ mang tính chính trị và xã hội. Sự xuất hiện của bài thơ đúng thời điểm, đúng lịch sử, đúng lòng người khiến bài thơ được ngợi ca, cũng là một việc công bình. Sự ngợi ca này đến từ phía văn học, dân chúng miền Nam và dân hải ngoại nhiều hơn là văn học miền bắc và dân miền bắc. Cũng là chuyện hợp lý.

    Sự độc đáo trong thơ bắt đầu từ ý nghĩ sâu sắc, thâm thúy hay mới lạ được cảm xúc thúc đẩy vào tứ thơ khác thường với chữ nghĩa đặc thù mới hoặc khác lạ cho riêng tứ thơ đó. Xét về văn học, không thể chối cãi “Ta Về” là một bài thơ hay. Sự vắng mặt của khả năng độc đáo khiến bài thơ không được xếp vào thượng hạng.

    Rồi mai nay, khi những thế hệ trẻ lớn lên, họ không mấy trải nghiệm bối cảnh xã hội / chính trị bắc nam, không mấy cảm nhận được ý thức cụ thể về tù đày / cải tạo / lòng tàn ác; thì “Ta Về” chỉ là một bài thơ của một người tù trở về nhà. Bên cạnh những bài thơ của người tù trở về từ các trại giam của Đức Quốc Xả, trong Thế Chiến thứ Hai. Nhưng đó là chuyện của các thế hệ sau. Có thể họ sẽ tiếp tục bình phán.

    Thế hệ cùng thời với tác giả, tôi chỉ có thể nói, trung thực, “Làm được một bài thơ như “Ta Về” đã là việc hiếm hoi.”

    Ngu Yên, 31 tháng 8, năm 2025. Boston-Houston.

    Luận chú:

    [L1]

    Mỗi giai đoạn, mỗi thế hệ, sẽ cập nhật những tư tưởng mới, những lý thuyết văn học mới, những khám phá mới, do đó những nhà phê bình mới sẽ nhìn những bài thơ xưa dưới tầm mắt khác. Đây cũng là một cách đo lường chính xác của một bài thơ tồn tại qua nhiều thế hệ. Như sự trường tồn của Đoạn Trường Tân Thanh.

    Đã làm nhà phê bình thì không ít sẽ nhiều động chạm đến người sáng tác. Có lẽ, đa số người ta hiểu lầm phê bình văn học là thẩm phán văn chương. Một thứ quyền lực gia trưởng. Không phải, là một loại hầu bàn văn chương không có tiền típ.

    Phê bình văn học không nhằm mục đích tìm kiếm dứt khoát một chân lý duy nhất (sự đúng/sai). Nó hướng đến việc thấu hiểu và kiến tạo ý nghĩa thông qua việc đọc kỹ lưỡng và tập trung vào một văn bản văn chương, từ đó dẫn đến một dạng kiến thức chuyên biệt và phân tích với những phương pháp nghiêm túc.

    Mặc dù một số nhà phê bình ủng hộ những cách tiếp cận khác nhau, nhưng nhìn chung, phê bình văn học là một lĩnh vực riêng biệt, thông qua các phương pháp diễn giải và phân tích, nó tiết lộ và xây dựng kiến thức chứ không chỉ đơn thuần là phơi bày một chân lý đã tồn tại từ trước. Trong bối cảnh và tư tưởng ngày nay, hai chữ “chân lý” không còn mấy giá trị. Cơ sở của văn học không có đúng và sai, chỉ có chỉ có giá trị nền và giá trị thay đổi từng thời kỳ. Trong quá trình phê bình, giá trị của nó nằm ở việc thách thức những giả định, vạch trần những điểm mù và tinh chỉnh sự hiểu biết. Mối quan hệ giữa phê bình và chân lý rất phức tạp và thay đổi tùy thuộc vào loại phê bình được đưa ra.

    Nền phê bình văn học ở nước ta không rạng rỡ lắm vì ít người tham dự với tài năng sắt bén và nhất là lòng trung thực có sức can đảm xô sau lưng. Chưa kể phê bình còn bị dụ dỗ và bị áp lực bởi tình, tiền và danh.

    [L2]

    Tôi là người làm thơ, khá lâu, không có nghĩa là khá hay, nhưng có nghĩa là ăn nằm với thơ gần 60 năm, tất nhiên, thơ mà tôi nhìn thấy, nghĩ về, có căn cước riêng. Căn cước như thế nào là một chuyện khác.

    Tôi là người làm thơ rồi lại săm soi phát biểu ý kiến về thơ người khác, gần giống như một người lấy vợ khá lâu, rồi đi ra ngoài so sánh vợ người khác với vợ mình, khẩu nghiệp hơn nữa là phát biểu về nhan sắc và tính tình của vợ người ta. Phải chăng có gì lấn cấn, có gì không phải đạo lý? Như vậy, những người độc thân, chưa có vợ, có hợp lý để làm công việc bình phẩm hay không?

    Tất cả những ý tưởng đại loại kiểu này là do sự sợ thúc đẩy suy nghĩ. Những ràng buộc của xã hội, quen biết, bạn bè, trong trường hợp này, có thêm văn chương, khiến cho, như nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã nói. “Viết lách” là vừa viết vừa lách. Tôi tưởng như lái xe Honda giữa phố Sài Gòn đêm Giáng Sinh, vừa lách vừa chống chân vừa rồ ga. Biết bao lâu mới đến?

    Tôi không biết có dân tộc nào khác có những từ tương đương với “viết lách,” nhưng dân tôi giỏi lách hơn viết. Bốn ngàn năm lách làm sao không chuyên nghiệp?

    Liệu vô thức “viết lách” sẽ tự động điều khiển tôi lách được bao nhiêu khi xét lại bài thơ “Ta Về”, một việc làm có lẽ không cần thiết cho những người đọc thơ, nhưng cần thiết cho văn học.

    Đến đây, có phải người đọc nghĩ rằng tôi sắp sửa quần thảo với Ta Về vì những quan điểm không hài lòng, hoặc khám phá ra điều gì cần phải nói? Không, tôi chỉ có cảm giác thích và không thích khi đọc bài thơ này nhiều lần. Chưa biết rõ ràng, sâu xa những lý do. Từ khá lâu, tôi đã có ý định tìm hiểu sâu về bài thơ bằng cách đọc từng đoạn, ghi lại cảm nhận, theo kiểu đi đến đâu, nghĩ gì, thì nói đến đó, rồi mới ngắm nghía xét tổng thể, lý luận đôi điều cần viết, phần còn lại lách những gì không có hại cho văn học mà tạo ra phức tạp cho tình cảm. Đồng thời tôi làm bài tập, homework, về một lý thuyết phân tích và phê bình, một phương pháp không hàn lâm, nhắm vào những người đọc chỉ muốn nhức đầu vừa phải.

    [L3]

    Các nhà thơ sáng tác tiếng Việt ít quan tâm đến cấu trúc của một bài thơ. Họ thường xuyên làm theo thói quen đã có từ học đường, một loại cấu trúc truyền thống. Cấu trúc ở đây là nghệ thuật sắp xếp bài thơ để truyền đạt. Các bạn sẽ thấy rõ hơn tầm quan trọng của cấu trúc nếu các bạn tìm hiểu thêm về Cấu Trúc luận (Structuralism) và Phản Cấu Trúc luận (Deconstruction-Derrida).

    Tương tựa như nhà nào ở cũng được. Nhưng ở nhà tân thời khác với nhà truyền thống. Nếu không, bạn mua nhà mới để làm gì?

    [L4]

    Từ cuối thế kỷ 18 ở Tây phương, khi chủ nghĩa Lãng Mạn (Romanticism) thành hình, sáng tác văn học đề cao cảm xúc. Cho dù về sau, nhiều chủ nghĩa khác thay thế và sửa đổi những phần cực đoan của chủ nghĩa Lãng Mạn, nhưng “Cảm xúc” vẫn là nguồn và động lực sáng tác, nhất là thi ca.

    Một bài thơ dù khó khăn hình tứ chữ nghĩa nếu quả thật phát xuất từ cảm xúc thì vẫn là bài thơ có thể hiểu, có thể chia sẽ. Nếu ý tưởng là trí tuệ của bài thơ thì cảm xúc là trái tim mà thơ cần phải có. Về quan điểm này, bài thơ “Ta Về” đoạt giải cảm xúc.

    Tuy nhiên cảm xúc trong một bài thơ đòi hỏi một sự cân bằng nào đó với ý tưởng. Trí tuệ và trái tim phải cân xứng, hòa hợp trong tứ thơ, tức là thể xác của thơ.

    Ông cũng từng là sĩ quan quân đội, từng là thư ký tòa soạn và giáo sư thỉnh giảng. Từng được giải thưởng văn chương toàn quốc. Từng là một trong ba nhân vật đặc biệt được nêu tên cùng với Mai Thảo và Phạm Duy vào năm 1975.

    Nếu Google, hẳn chúng ta sẽ ngợp trước các thông tin vinh dự về ông, nào là nhà thơ châu Á duy nhứt được hai tờ báo lớn của Mỹ đăng thơ và phỏng vấn. Nào là thơ ông được đưa vào làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại các đại học Mỹ và châu Âu. Rồi thì có tên trong tuyển tập thi ca thế giới. Và, nổi tiếng này. Và, lừng danh kia.

    Nếu hỏi tôi, lúc này đây, ngay lúc này đây, lúc tôi đang gõ những con chữ này đây, rằng thì là, tôi thích thơ ai nhứt, trong số các nhà thơ hiện đang ở tại hải ngoại sau năm 1975, thì tôi sẽ trả lời ngay mà không chần chừ, ngần ngại – Du Tử Lê.

    Nếu hỏi tôi tiếp, rằng thì là, tôi thích vì lẽ gì, thì tôi cũng thưa ngay mà không cần do dự, nghĩ suy, tôi thích, vì thơ ông hợp với tạng tôi.

    Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi, thơ ông đẹp.

    Đẹp và có chiều sâu.

    Từ cái cách đặt dấu câu, như dấu chấm, dấu phẩy và các loại dấu khác của ông trong thơ, cho đến việc dụng những chữ thơ mang tính nhỏ nhẹ, mềm mại, dịu dàng, ngay cả khi cuộc tình, ngay cả khi cuộc đời ông, đang ở mức đớn đau, thống khổ nhứt, cũng đều khiến tôi thích.

    Từ những ý tưởng sẵn sàng chấp nhận phần thiệt thòi, sẵn sàng hy sinh đời mình hết cho tình, đến những nỗi sầu muôn niên về thân phận, về kiếp người, về nỗi buồn ly hương, về nỗi nhớ thương vời vợi, và cả nỗi cô đơn rất đặc trưng của nòi văn nghệ sĩ, tôi cũng thích nốt.

    Một bạn văn thân thiết của tôi, nhận xét, thơ ông điệu, có phần đỏm dáng. Tôi liền tra xem, đỏm dáng là gì, thì ra, đỏm dáng là đẹp một cách chải chuốt.

    Cũng có thể là như thế, Du Tử Lê dụng từ khá chải chuốt. Nhưng đã sao? Chải chuốt, trau chuốt từ ngữ khi làm thơ, khi viết văn, với tôi, là việc chẳng có gì sai, chẳng có gì xấu. Nó là một phần của tính cách cầu toàn, toàn mỹ, toàn bích. Nó thuộc về tính người. Mà ngẫm lại, tôi cũng như thế, hệt ông.

    Nếu trước khi nói, người cẩn thận phải uốn lưỡi bảy lần, thì khi viết, tôi cũng chọn đi chọn lại trong đầu ngần ấy lần những từ, những ngữ, cho đến khi nào tôi thấy ổn, cho đến khi nào tôi thấy vừa ý mình rồi, tôi mới đặt bút xuống, hoặc gõ xuống bàn phím.

    Tánh cách kỹ lưỡng, thận trọng ấy, thể hiện sự tôn trọng người đọc, bạn đọc. Trọng người, người tất sẽ phải trọng ta.


    Poetry Evolution in Nigeria – Sự phát triển của thơ ca Nigeria

    Thơ ca ở Nigeria, quốc gia đông dân nhất châu Phi, đã có những bước phát triển đáng kể sau năm thập kỷ độc lập. Ông tôi là một nhà thơ, người đã sáng tác trong đầu và chia sẻ văn hóa của mình qua những bài thơ sử thi, sử dụng nghệ thuật này như một cách để ghi nhớ lịch sử truyền miệng, truyện kể, phả hệ và
    luật pháp. Ngài, Hoàng thân Nze Ihebuzoaju Paul Onwumere, đã mang lại ý nghĩa cho thơ ca trong làng; tuy nhiên, hầu hết mọi người, bao gồm cả tác giả này, đều không hiểu rõ những gì ông đã làm khi còn sống.

    Thơ ca là một thể loại văn học khó có thể định nghĩa chính xác. Nhiều nhà thơ và học giả để nàng thơ của họ quyết định thơ là gì, nhưng với những người còn lại, chúng ta có thể sử dụng định nghĩa phổ biến trên Internet này: “Thơ ca là một nhận thức giàu trí tưởng tượng về trải nghiệm được thể hiện thông qua ý nghĩa, âm thanh và lựa chọn ngôn ngữ nhịp điệu để khơi gợi phản ứng cảm xúc. Thơ ca được biết đến là sử dụng vần điệu và nhịp điệu, nhưng điều này không có nghĩa là bắt buộc. Thơ ca là một hình thức cổ xưa đã trải qua nhiều lần tái tạo mạnh mẽ theo thời gian.”

    Vì người châu Phi không ghi chép lại các sự kiện diễn ra trong thời cổ đại dưới dạng văn bản, nên sự phát triển của thơ ca được cho là nhờ nhóm ngôn ngữ Ấn-Âu, bao gồm tiếng Ireland, tiếng Gaelic Scotland, tiếng Wales và tiếng Breton, cùng các phân nhóm Brythonic và Goidelic. Bất chấp những ghi chép lịch sử, người châu Phi cổ đại đã biết thơ ca là gì và họ đã sử dụng nó một cách hiệu quả.

    Từ Ấn Độ cổ đại xuất hiện kinh Vệ Đà (có trước năm 2000 TCN), nhưng người ta thường cho rằng bài thơ lâu đời nhất còn tồn tại là Sử thi Gilgamesh, được sáng tác sau đó một chút, vào khoảng
    năm 1300-1000 TCN ở Sumer (Iraq/Lưỡng Hà ngày nay). Các sử thi Hy Lạp như Iliad và Odyssey, sử thi tiếng Phạn Ramayana và Mahabharata của Ấn Độ và Sử thi Tây Tạng về Vua Gesar cũng nằm trong danh sách các tác phẩm kể chuyện cổ đại nổi tiếng. Vậy đại diện của châu Phi ở đâu trong lịch sử này? Người ta cho rằng thơ ca châu Phi không có vì không có ghi chép thành văn, nhưng truyền thống truyền miệng châu Phi vào thời Homer lại rất thịnh hành. Các bài thơ châu Phi từ thời xa xưa đã được truyền lại cho người dân thông qua truyền thống truyền miệng, và chúng vẫn tồn tại trong các túp lều, làng mạc và thị trấn châu Phi ngày nay.

    Tiếng nói của người Nigeria, lúc đó Châu Phi đã có vô số nhà tư tưởng tìm cách xác định điều gì làm nên nét đặc trưng của thơ ca như một hình thức nghệ thuật, và điều gì phân biệt thơ hay
    với thơ dở. Những hoạt động này đã dẫn đến sự phát triển của ngành nghiên cứu mỹ học thơ ca, hay còn gọi là “Thi học”, một lĩnh vực thiết yếu để phân biệt một nhà thơ truyền miệng với một nhạc sĩ. Người châu Phi đã làm điều đó, giống như người Trung Quốc cổ đại (trong Sử Kinh hay Ngũ Kinh), đã phát triển một bộ kinh thơ vừa mang tính nghi lễ vừa mang tính thẩm mỹ.

    Không đi sâu vào chi tiết của Thi pháp học, một học giả của nghiên cứu này đã xác định rằng thơ ca phải có quy tắc. Ví dụ,
    Thi pháp học của Aristotle mô tả ba thể loại thơ là sử thi, hài kịch và bi kịch. Sau đó, các hình thức thơ ca, chẳng hạn như sử thi hoặc thơ trữ tình, đã được xác định.

    Khi nghiên cứu sự phát triển của thơ ca ở Châu Phi và các nơi khác, không thể bỏ qua Nigeria. Trong thời hiện đại, có bốn thế hệ nhà thơ Nigeria: Tiền thuộc địa, Thuộc địa, Hậu thuộc địa và Đương đại. Qua những thế hệ này, thơ ca đã phát triển vượt bậc và ngày càng tốt đẹp hơn.

    Các cộng đồng đa sắc tộc trong khu vực (như người Hausa/ Fulani, Yoruba, Igbo, Ijaw, Efik, Ibibio, Bini, Nupe và Igala, chỉ kể tên một vài nhóm) đã có cách thưởng thức thơ ca truyền thống từ rất lâu trước khi những người thực dân da trắng đến. Ví dụ như Nze Onwumere, ông tôi, là người Igbo, một dân tộc trước và sau thời kỳ thực dân vẫn truyền miệng thơ ca bằng tiếng nói về đêm [hình ảnh: Bức tranh tường mô tả Ken Saro-Wiwa ở Quận Mayo, Ireland; thơ của ông được trưng bày (bằng tiếng Gaelic), cũng như tên của tám nhà hoạt động khác của nhóm Ogoni Nine đã bị hành quyết năm 1995 dưới thời Tướng
    Sani Abacha.]

    Bức tranh tường mô tả Ken Saro-Wiwa ở Quận Mayo, Ireland; thơ của ông được trưng bày (bằng tiếng Gaelic), cũng như tên của tám nhà hoạt động khác của “Ogoni Nine” đã bị hành quyết vào năm 1995 dưới sự cai trị của Tướng Sani Abacha.

    Tiếng nói của Wikicommons , chủ yếu là tại các đám tang.

    Cũng như sự phát triển của văn chương và khả năng đọc viết đã thay đổi thơ ca trên toàn thế giới, các nhà thơ Nigeria, bao gồm Nnamdi Azikiwe, Christopher Okigbo, Dennis Osadebe (người được tưởng nhớ), Gabriel Okara, Wole Soyinka, Chinua
    Achebe, John Pepper-Clark, cùng nhiều người khác, đã thử nghiệm nền giáo dục phương Tây. Tuy nhiên, thơ ca của họ, bị vấy bẩn bởi quan điểm phương Tây, đã trở thành một
    khối u ác tính trên nền thơ ca Nigeria, bỏ lại những người Nze Onwumere của thế giới này phía sau. Thơ ca của những người đàn ông được giáo dục phương Tây này chủ yếu dành cho giới học thuật; khi cuộc chiến giữa Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Tư bản đang thịnh hành, họ đã viết những bài thơ được thiết kế để phá hoại chủ nghĩa thực dân. Họ đại diện cho một tầng lớp thơ phản kháng và nhà thơ đi chệch khỏi hình thức thơ truyền thống của Nigeria.

    Bướm

    Tốc độ là bạo lực
    Sức mạnh là bạo lực
    Trọng lượng là bạo lực

    Con bướm tìm kiếm sự an toàn trong sự nhẹ nhàng
    Trong chuyến bay không trọng lượng, lượn sóng

    Nhưng tại ngã tư đường nơi ánh sáng lốm đốm
    Từ những cái cây rơi xuống một xa lộ mới gồ ghề
    Lãnh thổ hội tụ của chúng ta gặp nhau

    Tôi đến với đủ sức mạnh cho hai người
    Và con bướm dịu dàng tự hiến
    mình trong sự hy sinh màu vàng tươi
    Trên tấm khiên silicon cứng cáp của tôi.

    – Chinua Achebe

    Trong khi Thi pháp học có những thể loại và quy tắc chi phối thơ ca, thì sự kết thúc của chủ nghĩa thực dân ở Nigeria đã mở ra những hình thức và phong cách thơ mới, hầu hết đều không có phong cách xác định. Các nhà thơ Nigeria dưới thời thực dân đã tiếp nối văn hóa sáng tác thơ mà họ học được trực tiếp từ những
    người thực dân da trắng; các nhà thơ hậu thực dân đã thay đổi những phong cách và chủ đề này. Sau khi giành độc lập, các nhà thơ như Niyi Osundare, Onwuchekwa Jemie, và những người khác đã viết rất mạnh mẽ bằng hình thức nghệ thuật được cải biên này.

    Năm 1986, Giải Nobel Văn học được trao cho nhà thơ-nhà viết kịch hậu thuộc địa Wole Soyinka, củng cố vị thế của Nigeria trên
    trường văn học thế giới. Được định hình bởi chủ nghĩa thực dân, các nhà thơ thế hệ thứ hai, như những người theo chủ nghĩa Marx tự nhận là Odia Ofeimun và Niyi Osundare, là những người tiên phong trong cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của thơ ca Nigeria và xóa bỏ tư tưởng thực dân. Harry Garuba, Afam Akeh, và Sesan Ajayi, lần lượt là một giáo sư đại học, một nhà thơ tự bạch và một nhà báo, nằm trong số những người dẫn đầu thế hệ nhà thơ thứ ba (hậu thuộc địa).

    Tiếng nói Nigeria, Ngày mai

    Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của thơ ca ở Nigeria được thúc đẩy bởi nhận thức xã hội ngày càng tăng và áp lực cảm xúc do
    các vấn đề và khủng hoảng xã hội, chính trị và kinh tế gây ra. Các nhà thơ Nigeria đương đại (thế hệ thứ tư) như Remi Raji, Uche Peter Umez, Obi Nwakanma, Ogaga Ifowodo, Chidi Anthony Opara, Maik Nwosu, tôi và nhiều người khác, đang sáng tác thơ gần như hàng ngày, dưới dạng sách hoặc xuất bản trên
    Internet. Các nhà thơ từ khắp nơi trên thế giới đang ghen tị và học hỏi từ sức mạnh và danh tiếng mà các nhà thơ Nigeria đang có được trong nền văn học nước nhà.

    Nadia

    Marrakech: mái tóc bạc của
    Atlas, những vệt sáng của năm tháng,
    như sự thật được hộ tống bởi vệ sĩ.

    Đây không phải là chiến tranh: cú ngã nhanh
    không phải là chiến tranh, Nadia ạ.

    Hai mặt dây chuyền, mỗi mặt có hình trái tim, và
    chiếc khóa bạc gắn chặt với thời gian;

    Không phải chiến tranh: mà là sự trớ trêu của khoảng cách,
    Và khoảnh khắc này, một bầu ngực đầy đặn lấp lánh
    dưới ánh trăng, những con phố tối tăm
    và trùm đầu, giống như kẻ vô luật pháp,
    người lạ hoặc người lữ hành:

    Đó là chiếc vỏ quả loang lổ sữa
    , gần đến nỗi nó biến mất,
    giống như con tắc kè bỏ lại cái đuôi của mình.

    – Obi Nwakanma

    Mặc dù thiếu các ấn phẩm in dành cho các nhà thơ và tác giả,
    thế hệ nhà thơ mới này vẫn phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là thông qua nhiều cuộc thi thơ địa phương như Giải thưởng Thơ Gabriel Okara của ANA/NDDC, Giải thưởng Thơ Cadbury, Giải thưởng Thơ Muson, và Giải thưởng Văn học NLNG/Nigeria luân phiên. Ngoại trừ Giải thưởng Văn học NLNG/Nigeria với tổng giá trị giải thưởng lên đến 50.000 đô la, rất ít giải thưởng có giá trị tài chính.

    Nhưng như một nhà phê bình đã nói về bối cảnh thơ ca Nigeria ngày nay, có một sự pha trộn giữa tài năng và tầm thường, giữa vần điệu, hùng biện và lý trí. Tuy nhiên, tôi tin rằng không hề thiếu những nhà thơ Nigeria trí thức.

    Các nhà thơ Nigeria là những nhà văn, nhà tiên tri và nhà cải cách xã hội vĩ đại, những người luôn tìm cách truyền tải quan điểm của mình (điều này không thể nói về giới lãnh đạo chính trị của chúng ta). Trong bối cảnh có thể được mô tả là hùng mạnh, các nhà thơ Nigeria đại diện cho sự phản kháng đối với những tệ nạn của xã hội.

    Ngày nay, các nhà thơ và tác giả Nigeria luôn tâm huyết với sự nghiệp nhân đạo và công lý xã hội. Vì họ luôn cống hiến cho xã hội, người dân Nigeria phải nỗ lực gìn giữ di sản của họ.

    Nghèo

    Có gì giống như nghèo đói không?
    Có phải là NGHÈO KHÓ khi một người đàn ông khỏe mạnh
    nhưng không giàu có?
    Có phải là NGHÈO KHÓ khi một người đàn ông giàu có
    nhưng không khỏe mạnh?
    Có phải là NGHÈO KHÓ khi một người đàn ông giàu có
    nhưng không biết chữ?
    Có phải là NGHÈO KHÓ khi một người đàn ông có nhiều con
    nhưng không có tiền để chăm sóc chúng?
    Có phải là NGHÈO KHÓ khi một người đàn ông giàu có
    nhưng không có con?
    Cái mà bạn gọi là NGHÈO KHÓ có thể là GIÀU CÓ
    đối với người đàn ông khác.
    Ngoài kia không có
    những người phụ nữ hiếm muộn giàu có về mặt tài chính
    đang khao khát con cái sao?
    Ngoài kia không có
    những người cơ bắp về mặt tài chính
    nhưng không có sự bình yên sao?
    Ngoài kia không có những người
    khuyết tật
    nhưng có công việc thủ công sao?
    Những gì có vẻ là NGHÈO KHÓ đối với bạn
    có thể là GIÀU CÓ đối với người đàn ông khác.
    Thành công của một người đàn ông có
    được quyết định bởi mức độ thành công
    về mặt tài chính của anh ta không?
    Trong cuộc sống, con người luôn tụt hậu về mặt này hay mặt khác
    bất kể địa vị cao đến đâu.
    Vì vậy, không có người GIÀU, không có người NGHÈO.
    Những kẻ tham lam, không biết thỏa mãn
    hay bạn có thể gọi họ là những kẻ mắc chứng ăn cắp vặt thường rất phổ biến.

    – Odimegwu Onwumere
    

    Tổng quan

    Nigeria, quốc gia đông dân nhất châu Phi, là một quốc gia đa sắc tộc và đa ngôn ngữ. Quốc gia này bao gồm các dân tộc như: Hausa/Fulani, Yoruba, Igbo, Ijaw, Efik, Ibibio, Bini, Nupe, Igala, Urhobo, Itsekiri, v.v., mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng. Bản chất đa sắc tộc và đa ngôn ngữ của đất nước tạo nên một môi trường đa văn hóa tương tự. Sự đa dạng văn hóa của Nigeria được thể hiện qua các hoạt động văn học và nghệ thuật của người dân, cụ thể là: thơ ca, văn xuôi, hội họa, âm nhạc, điêu khắc, kịch, múa, v.v.

    Thơ ca thời tiền thuộc địa

    Thơ ca là một loại hình nghệ thuật đã trải qua quá trình phát triển từ thời tiền thuộc địa sang thời thuộc địa, rồi đến thời hậu thuộc địa và đương đại ở Nigeria. Thơ ca thời tiền thuộc địa chưa được ghi chép thành văn. Có một ranh giới mong manh giữa các nhà thơ và nhạc sĩ, những người sáng tác và thể hiện thơ ca dưới dạng âm nhạc. Các nhà thơ thời đó, như Mazi Oparan’aku Onyeukwu (ông nội của tác giả), ở Umude Avuvu, nay thuộc Khu vực Chính quyền Địa phương Ikeduru, bang Imo, Nigeria, với những tác phẩm thơ ca về đêm đã mang lại cho ông biệt danh “Obe na abali” (có nghĩa là “giọng nói về đêm”), đã xuất bản tác phẩm của mình dưới dạng các tác phẩm được trình bày tại các đám tang, lễ cưới, v.v. Các nhà thơ thời đó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tinh thần của các chiến binh bộ lạc, cũng như sáng tác thơ cho các nhà tiên tri như các thầy tế Ifa của tộc Yoruba. Sự hiện diện của họ trong cung điện cũng được coi là một vật dụng của hoàng gia. Chủ đề thơ ca thời đó bao gồm việc ca ngợi đức hạnh và lên án những tệ nạn trong xã hội bị kìm kẹp bấy giờ. Một đặc điểm của thơ ca Nigeria thời tiền thuộc địa mà các thời đại khác không có là khuynh hướng tâm linh. Các nhà thơ thời đó có mối liên hệ mật thiết với các vị thần được thờ phụng trong nền văn hóa của họ. Trong hầu hết các nền văn hóa Nigeria thời tiền thuộc địa, các nhà thơ được coi là những phát ngôn viên được xức dầu của các vị thần và được công nhận là những thầy tế lễ bán thời. Điều đáng chú ý nữa là sức sống mãnh liệt của thơ ca (truyền miệng) thời kỳ này, vẫn được thể hiện trong các tác phẩm của các học giả Nigeria hiện đại về văn học truyền miệng như Giáo sư Wande Abimbola.

    Thơ ca thời kỳ Thuộc địa

    Việc các nhà truyền giáo thuộc địa du nhập nền giáo dục phương Tây vào Nigeria đã thay đổi hoàn toàn hình thái thơ ca. Thế hệ nhà thơ Nigeria này, chẳng hạn như Wole Soyinka, John Pepper-Clark, Christopher Okigbo, Gabriel Okara, v.v., sau khi tiếp thu nền giáo dục phương Tây, đã xuất bản thơ dưới dạng sách và trình bày trên các đài phát thanh, truyền hình và trên sân khấu của các nhà hát bán hiện đại. Tuy nhiên, các chủ đề chủ yếu tập trung vào việc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, vốn bị coi là một tệ nạn. Các chủ đề thơ ca thời kỳ Thuộc địa có xu hướng hàn lâm, dẫn đến xu hướng đan xen thơ ca thời kỳ đó để thu hút chủ yếu giới học thuật. Sự phân cực của kinh tế chính trị quốc tế thành chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội cũng ảnh hưởng đến các chủ đề của các nhà thơ Nigeria thời kỳ thuộc địa, phần lớn trong số họ được đào tạo ở châu Âu và châu Mỹ. Tác động của sự phân cực này sẽ được đánh giá rõ hơn khi các tác phẩm của các nhà thơ Nigeria thời kỳ này được đánh giá.

    Thơ Hậu Thuộc Địa

    Đến cuối thời kỳ thuộc địa, các nhà thơ ở Nigeria thời kỳ hậu thuộc địa, giờ đây được tiếp xúc với nền giáo dục công nghệ, đã thay đổi mạnh mẽ phong cách và chủ đề sáng tác và trình bày thơ. Việc cô đọng các chủ đề thơ Nigeria thời kỳ hậu thuộc địa vào những khuôn mẫu cụ thể đôi khi khá khó khăn. Điều này là do sự xuất hiện của nhiều khuynh hướng kinh tế xã hội, chính trị và văn hóa khác nhau mà các nhà thơ thời kỳ này phải hướng đến. Ngay cả trong bối cảnh khó khăn này, các nhà thơ Nigeria thời kỳ hậu thuộc địa như Niyi Osundare, Onwuchekwa Jemie, Chari Ada Onwu, và cộng sự, vẫn tập trung vào các chủ đề có liên quan đến xã hội, chính trị và văn hóa.

    Thơ ca đương đại

    Các nhà thơ Nigeria đương đại như: Obi Nwakanma, Odia Ofeimun, Chidi Anthony Opara, Ogaga Ifowodo, Maik Nwosu, Sola Osofisan, v.v., chủ yếu xuất bản thơ trên Internet và trình bày thơ bằng các thiết bị nghe nhìn tinh vi thông qua các kênh phát sóng nghe nhìn hiện đại và trên sân khấu của các nhà hát siêu hiện đại. Một trong những thách thức lớn mà các nhà thơ Nigeria thời đại này phải đối mặt là sự bất lực và/hoặc sự miễn cưỡng từ phía các nhà phê bình văn học, những người vốn được coi là điểm tựa cho nghệ thuật văn chương chất lượng, trong việc nâng cao kỹ năng của mình để đáp ứng những thách thức của các tác phẩm văn học trong thời đại Internet. Một vấn đề lớn khác là quan niệm sai lầm ở Nigeria đương đại rằng Thơ ca chỉ là một hoạt động trí tuệ, không nên nhấn mạnh vào nội dung giải trí. Trong khi các nhà thơ đương đại ở những nơi khác trên thế giới đang khai thác khía cạnh giải trí này để nâng cao vị thế của bản thân và xã hội, về mặt nghề nghiệp, kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, thì các nhà thơ Nigeria đương đại vẫn nhìn nhận nghề của họ từ một lăng kính sai lầm rằng thơ ca chỉ là một hoạt động trí tuệ, với những hậu quả đi kèm về mặt nghề nghiệp, kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, việc xuất bản thơ trên Internet đã góp phần lớn vào sự sụp đổ của thơ ca.

    Overview

    Nigeria, the most populated country in Africa, is a multi-ethnic and multi-lingual Nation. It is made up of ethnic nationalities like: Hausa/Fulani, Yoruba, Igbo, Ijaw, Efik, Ibibio, Bini, Nupe, Igala, Urhobo, Itsekiri, to mention a few, each with its distinct language. The country’s multi-ethnic and multi-lingual nature engenders an equally multi-cultural setting. Nigeria’s cultural diversity find expressions in the literary and artistic endeavours of her peoples, namely: poetry, prose, painting, music, sculpture, drama, dance, etc. 

    Pre-Colonial Poetry

    Poetry as an art form has undergone evolution from pre-colonial to colonial and then to post-colonial and contemporary eras in Nigeria. Poetry in the pre-colonial era was unwritten. There existed a thin line between poets and musicians, who composed and rendered poetry in musical form. Poets then like Mazi Oparan’aku Onyeukwu(author’s grandfather), of Umude Avuvu in the present day Ikeduru local Government Area of Imo State Nigeria, whose nocturnal poetry renditions earned him the nickname “Obe na abali” meaning “the nocturnal voice”, published their works in form of renditions at funerals, marriage ceremonies, etc. Poets then were also prominent in boosting the morale of tribal warriors, as well as composing verses for use by diviners like the Ifa priests of the Yoruba race. Their presence in palaces were also considered as a paraphernalia of royalty. Poetry themes then consisted in praising virtues and condemning vices in the then compressed society. One feature of pre-colonial Nigerian poetry that is lacking in other eras is its spiritual leaning. Poets in that era had affinities with deities worshipped in their cultures. In most pre-colonial Nigerian cultures, poets were regarded as anointed mouthpieces of deities and are accorded recognition as quasi-priests. Remarkable also is the resilience of the (oral) poetry of this era which still find expressions in the works of modern day Nigerian scholars of oral literature like Professor Wande Abimbola.

    Colonial Poetry

    The introduction of western style education in Nigeria by the colonial missionaries, radically changed the shape of poetry, this generation of Nigerian poets, like; Wole Soyinka, John Pepper-Clark, Christopher Okigbo, Gabriel Okara, et al, having acquired western education, published their poems in book form and rendered them in radio and television stations and on the stages of semi- modern theatres. The themes however, centered mainly on fighting colonialism, which was regarded as a vice. Poetry themes during the colonial era tended towards academic, resulting into a tendency to weave the poetry of that era to appeal principally to members of the academia. The polarization of international political economy into capitalism and socialism also affected the themes of colonial era Nigerian poets, most of whom were educated in Europe and America. The effect of this polarization will better be appreciated when the works of Nigerian poets of this era are assessed.

    Post-Colonial Poetry

    By the end of colonialism, poets in post-colonial Nigeria, now exposed to technological education, drastically changed the style and themes of poetry writing and rendition. Compressing Nigerian poetry themes in the post-colonial era into particular moulds is somehow difficult. This is because of the emergence of various socio-economic, political and cultural tendencies which poets of this era must appeal to. Even in the midst of this difficulty, post-colonial era Nigerian poets like Niyi Osundare, Onwuchekwa Jemie, Chari Ada Onwu, et al, managed to focus on socially, politically and culturally relevant themes.

    Contemporary Poetry

    Contemporary Nigerian poets like: Obi Nwakanma, Odia Ofeimun, Chidi Anthony Opara, Ogaga Ifowodo, Maik Nwosu, Sola Osofisan, et al, publish mainly on the Internet and render their poems with sophisticated audio-visual instruments via equally sophisticated audio-visual broadcast channels and on stages of ultra-modern theatres. One of the major challenges faced by Nigerian poets of this era is the inability and/or reluctance on the parts of literary critics, who should normally be the fulcrum of qualitative literary craftmanship to upgrade their own skills to meet the challenges of literary productions in an Internet age. Another major problem is the erroneous belief in contemporary Nigeria that Poetry is only an intellectual exercise, whose entertainment content should not be emphasized. While contemporary Poets in other parts of the world are exploiting this entertainment aspect to enhance themselves and their societies, professionally, economically, politically, socially and culturally, contemporary Nigerian Poets still view their craft from an erroneous prism of poetry being only an intellectual exercise, with its attendant professional, economic, political, social and cultural consequences. Internet poetry publishing has however, contributed largely to the collapse of poetry hegemonies formed along Ibadan-Ife-Lagos and Nsukka-Enugu-Owerri literary axis respectively, immediately after the Nigerian civil war.

    Source by Chidi Anthony Opara | 

    So sánh hai bài thơ về loài chim

    Ảnh của Hạo Nhiên
    Ảnh của Hạo Nhiên

    Trong văn học, thiên nhiên luôn được coi là một chủ đề quan trọng. Là một đối tượng tự nhiên, chim cũng được nhắc đến trong thơ ca. Trên thực tế, nhiều nhà thơ đã viết nhiều bài thơ hay về chim. Chim cũng thường được sử dụng làm biểu tượng trong thơ ca. Ví dụ, trong văn học Bangla, chim cu gáy thường gắn liền với mùa xuân. Trong văn học Anh, có nhiều bài thơ viết về chim hoặc chim đóng vai trò quan trọng trong các bài thơ. Ví dụ, Ode to a Nightingale của John Keats và Ode to a Skylark của PB Shelly là hai bài thơ rất nổi tiếng về chim. Một bài thơ khác là The Rime of the Ancient Mariner của Samuel Taylor Coleridge, trong đó nhà thơ đã sử dụng chim hải âu lớn làm biểu tượng. Theo yêu cầu của bài tập, tôi đã chọn Ode to Nightingale của John Keats và The Rime of the Ancient Mariner của STColeridge để thảo luận.

    Trước khi thảo luận về hai bài thơ trên, cần làm rõ đôi nét về hai nhà thơ này và thời kỳ Lãng mạn trong văn học Anh nói chung. Thời kỳ Lãng mạn trong văn học Anh là một thời kỳ độc đáo bởi vì trong thời kỳ này, tất cả các nhà thơ đều sáng tác thơ về thiên nhiên và các chủ đề liên quan đến thiên nhiên. Thiên nhiên là khía cạnh chính trong thơ ca của họ. Trước họ, không nhà thơ nào có thể nghĩ về thiên nhiên như chủ đề chính của một bài thơ. Các nhà thơ Lãng mạn đã thành công trong việc thể hiện chủ đề này. Kết quả là, tất cả những bài thơ tuyệt vời về loài chim đều được viết trong thời kỳ này. John Keats là một nhà thơ Lãng mạn, người tôn thờ vẻ đẹp của thiên nhiên trong thơ ca của mình. Các vật thể tự nhiên trở nên sống động và đẹp đẽ trong thơ ông, tuy nhiên ông không coi chúng chỉ là những vật thể tự nhiên vô tri. Thay vào đó, ông pha trộn cảm xúc của riêng mình và tạo ra sự gắn bó cá nhân với chúng. Ông cũng thể hiện những cảm xúc cá nhân như hạnh phúc, buồn bã, hy vọng và thất vọng, v.v. trong thơ của mình. Trong bài Ode to a Nightingale, Keats đã bày tỏ mong muốn thoát khỏi thực tại khắc nghiệt mà ông không thể chịu đựng được. Ông muốn hòa mình vào chú chim họa mi và bay vào cõi mộng.

    Ngược lại, STColeridge đã chạm đến những yếu tố siêu nhiên của thiên nhiên và thể hiện chúng một cách rất tự nhiên. Coleridge có trí tưởng tượng tuyệt vời, và với kỹ năng kể chuyện xuất sắc, ông có thể tưởng tượng ra những điều siêu nhiên nhất rồi mô tả nó một cách tự nhiên nhất. Trong bài thơ “The Rime of the Ancient Mariner” , Coleridge đã mô tả cuộc đời của một người thủy thủ đã giết một con hải âu và sau đó phải chịu đựng vô cùng đau khổ vì điều đó. Toàn bộ bài thơ dựa trên phản ứng của việc giết chết con hải âu. Loài chim là một tạo vật tuyệt đẹp của Chúa, và việc giết chết con hải âu mà không có lý do, người thủy thủ đã phạm phải một tội lỗi nghiêm trọng với Chúa.

    Chỉ đến thế kỷ XX, con người mới học cách bay như chim trước khi máy bay được phát minh, con người luôn bị mê hoặc bởi ý tưởng bay như chim. Theo thần thoại Hy Lạp, Daedalus và Icarus đã cố gắng bắt chước loài chim và làm ra đôi cánh nhân tạo để bay. Nỗ lực của họ đã thất bại thảm hại. Vì vậy, khái niệm bay giống như một giấc mơ đối với nhân loại cho đến đầu thế kỷ XX, con người kinh ngạc trước loài chim vì chúng có thể bay trên bầu trời. Các nhà thơ cũng đánh giá cao điều này và tâm trí họ cũng muốn bay cùng chúng. Chúng ta thấy loại thôi thúc này trong Bài ca ngợi chim họa mi của Keats . Cuộc đời của John Keats là một cuộc đời rất bi thảm, ông qua đời sớm vì bệnh tật. Ông cũng có một mối tình sâu đậm với một người phụ nữ, điều này không mang lại cho ông thành công mà chỉ mang lại đau khổ. Vào thời của ông, một số nhà phê bình văn học có ảnh hưởng đã chỉ trích thơ của ông theo cách tồi tệ nhất có thể. Vì vậy, cuộc sống trở nên rất khốn khổ đối với John Keats. Cả cuộc đời ông tìm cách trốn thoát khỏi những đau khổ và trong Bài ca ngợi chim họa mi, chúng ta thấy nỗ lực tuyệt vọng của Keats để thoát khỏi thế giới khắc nghiệt và tàn nhẫn xung quanh ông. Ông cảm thấy chim họa mi thật may mắn khi có thể bay đi bất cứ nơi đâu. Mở đầu bài thơ, nhà thơ nhắc đến hoàn cảnh khốn khổ của mình:

    Tim tôi đau nhói, và cơn tê liệt buồn ngủ
    Cảm giác của tôi, như thể tôi đã uống cây độc cần,
    Hoặc đổ một ít thuốc phiện xỉn vào cống
    Một phút trôi qua, và Lethe-wards đã chìm:

    Ở đây, rõ ràng nhà thơ đã phải chịu đựng rất nhiều khi viết bài thơ này. Cuộc sống đã trở nên quá đau khổ đối với ông, ông cảm thấy như thể mình đã uống cây độc cần hay thuốc phiện. Ông muốn quên đi mọi đau khổ và được hạnh phúc trong niềm vui của chim họa mi.

    Đối với Coleridge, chim hải âu không phải là một cách trốn thoát mà là một tạo vật thiêng liêng và tuyệt đẹp của Chúa. Nó mang lại niềm vui cho các thủy thủ. Trong suốt hành trình, họ phải trải qua nhiều ngày cô đơn trên biển cả. Vì vậy, họ thường cảm thấy rất cô đơn và không có cơ hội nhìn thấy bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống xung quanh trong nhiều ngày:

    Cuối cùng đã vượt qua một con hải âu,
    Nó đã đến xuyên qua sương mù;
    Như thể đó là một linh hồn Kitô giáo,
    Chúng tôi chào đón nó nhân danh Chúa.

    Vì vậy, khi nhìn thấy một con hải âu, họ cảm thấy hạnh phúc và hy vọng rằng đất liền đang ở gần họ. Điều tương tự cũng xảy ra với những người bạn đồng hành của người thủy thủ xưa kia. Khi nhìn thấy hải âu, họ vui mừng chào đón nó, cho nó ăn và chơi đùa với nó. Nhờ vậy, hải âu đã mang đến cho họ tình bạn. Nhờ sự xuất hiện của hải âu, họ có thể thoát khỏi sự cô đơn khắc nghiệt xung quanh. Coleridge đã giới thiệu loài chim này như một người bạn và người bạn đồng hành của con người.

    Cả hai bài thơ đều sử dụng biểu tượng rất khéo léo. Coleridge đã sử dụng kỹ thuật tự nguyện tạm gác sự hoài nghi, khiến người đọc quên đi thế giới thực và tin rằng thế giới mà nhà thơ đang trình bày là có thật. Cốt truyện của bài thơ xoay quanh ý tưởng về tội lỗi – đau khổ – cầu nguyện – cứu chuộc. Đây là một bài thơ mang đậm dấu ấn đạo đức. Người thủy thủ đầu tiên đã phạm tội và sau đó anh ta phải chịu đựng vì tội lỗi đó. Sau nhiều đau khổ, anh ta cầu nguyện với Chúa và rồi Chúa đã tha thứ cho anh ta. Người thủy thủ đã học được bài học của mình và truyền đạt cho những người khác hãy thể hiện tình yêu thương và lòng tốt với tạo vật của Chúa. Chim hải âu tượng trưng cho Chúa Jesus Christ. Người thủy thủ đã giết chết chú chim vô tội đã mang đến tình bạn và hy vọng cho anh ta và những người bạn thủy thủ:

    Và một cơn gió nam tốt nổi lên phía sau;
    Chim hải âu đã theo sau,
    Và mỗi ngày, để ăn hoặc chơi,
    Đã đến tiếng gọi của thủy thủ!

    Tương tự như vậy, những người đàn ông củaGiê-ru-sa-lemChúa Kitô bị đóng đinh, Đấng vô tội và mang lại hy vọng cứu rỗi cho họ. Những người đi biển khác kinh hoàng khi phát hiện ra người đi biển đã giết chết con hải âu:

    Và tôi đã làm một điều kinh khủng,
    Và nó sẽ làm việc đó thật đáng thương:
    Với tất cả những gì đã khẳng định, tôi đã giết chết con chim
    Điều đó làm cho cơn gió thổi qua.
    Ôi khốn khổ! Họ nói, con chim phải giết,
    Điều đó làm cho làn gió thổi qua!

    Thông thường, tiếng hót của chim họa mi là biểu tượng của niềm vui và hạnh phúc. Nhưng Keats đã viết bài thơ này khi ông đang chịu đựng quá nhiều đau khổ vì bệnh tật. Mặc dù ông tìm kiếm hạnh phúc thông qua chim họa mi, nhưng trong thâm tâm ông biết rằng mình sẽ sớm qua đời. Vì vậy, biểu tượng của cái chết và sự lãng quên hiện diện trong bài thơ này. Keats đã nhiều lần nhắc đến thần thoại Hy Lạp. Bằng cách đó, ông đã đối xử với chim họa mi theo cách như thể nó là một loài chim kỳ diệu, vượt ra ngoài tầm với của bất kỳ nỗi buồn nào. Vì vậy, loài chim này kỳ diệu và thoát khỏi đau khổ của con người. Keats ước mình có thể giống như nó và vượt qua mọi nỗi đau và nỗi buồn của mình. Trong hành trình chấm dứt nỗi buồn, ông giống như Đức Phật. Đức Phật suốt cuộc đời đã tìm cách thoát khỏi đau khổ của con người và đạt được sự cứu rỗi. Keats cũng có cùng mục tiêu đó và trong bài thơ này, chim họa mi của ông có sức mạnh kỳ diệu đó. Vấn đề duy nhất là Keats biết rằng ông là một con người và không thể giống như chim họa mi.

    Trong “Ode to a Nightingale”, Keats cố gắng tạo ra sự cân bằng tốt giữa cảm giác và suy nghĩ. Ta có thể tìm thấy những đoạn văn gợi cảm phi thường, như ở phần mở đầu. Bằng cách sử dụng từ “giác quan”, Keats cũng khiến người đọc cảm nhận được sự tê liệt mơ màng này.

    Sau đó, nhà thơ đề cập đến những vấn đề của cuộc sống con người, như trong khổ thơ thứ ba:

    ‘Ở đây, nơi mọi người ngồi và nghe nhau rên rỉ;
    Nơi mà sự tê liệt làm rung chuyển một vài sợi tóc bạc cuối cùng, buồn bã,
    Nơi tuổi trẻ trở nên nhợt nhạt, gầy gò và chết đi;
    Chỉ cần nghĩ đến là đầy rẫy nỗi buồn .

    Trái ngược với Keats, Coleridge sử dụng những giáo lý đạo đức của Kitô giáo trong The Rime of the Ancient Mariner. Ông đã nhấn mạnh rất nhiều vào khái niệm tội lỗi và sự cứu rỗi. Thực ra, The Rime of the Ancient Mariner giống như một câu chuyện ngụ ngôn, thoạt đầu có vẻ như một câu chuyện trẻ con, không có ý nghĩa sâu sắc nào, nhưng khi xem xét kỹ hơn, người đọc sẽ nhận ra rằng nó chứa đựng những giáo lý đạo đức sâu sắc nhất. Bài học đạo đức của The Rime of the Ancient Mariner là:

    Người cầu nguyện tốt nhất là người yêu thương tốt nhất
    Mọi thứ lớn nhỏ;
    Vì Chúa yêu thương chúng ta,
    Ngài đã tạo ra và yêu thương tất cả.

    Kitô giáo cũng dạy chúng ta điều tương tự – yêu Chúa và những tạo vật của Người. Không tôn giáo nào khác nhấn mạnh đến loại tình yêu này đến vậy. Chim hải âu đã ban tặng tình yêu này cho các thủy thủ bằng cách mang lại cho họ niềm vui và may mắn. Vì vậy, chim hải âu cũng là một loài chim kỳ diệu. Chính loài chim này mang lại may mắn và gió mát cho các thủy thủ. Người thủy thủ thời xưa đã hành động ích kỷ và tàn bạo khi giết chết nó. Ông ta chỉ nghĩ đến thú vui của riêng mình. Ông ta thậm chí không nghĩ rằng mình đang giết một con chim vô tội mà không có lý do. Ông ta không thiếu thức ăn nhưng chắc chắn ông ta thiếu lòng nhân từ. Ông ta quên rằng có một vị thần quyền năng hơn bất kỳ ai. Chắc chắn Chúa không thích việc ông ta giết con chim mà không có lý do. Chúa đã cho người thủy thủ thấy rằng dù con người có quyền lực đến đâu, họ cũng không nên đối xử tàn nhẫn với thiên nhiên. Nếu họ không tuân theo nhân loại thì họ sẽ bị trừng phạt. Hình phạt mà người thủy thủ phải chịu đựng thật khủng khiếp. Ông ta đã chịu đựng nỗi đau tồi tệ nhất – sự cô đơn và cô lập. Bản chất con người là động vật xã hội, vì vậy việc ở một mình trên một con tàu giữa biển khơi mênh mông chắc chắn là một điều khủng khiếp. Ông thường ước mình đã chết nhưng điều đó đã không xảy ra

    Lời nguyền của một đứa trẻ mồ côi sẽ kéo xuống địa ngục

    Một tinh thần từ trên cao;
    Nhưng ôi! còn kinh khủng hơn thế nữa
    Lời nguyền nằm trong mắt người chết!
    Bảy ngày, bảy đêm, tôi đã thấy lời nguyền đó,
    Nhưng tôi vẫn không thể chết.

    Chỉ sau khi người thủy thủ nhận ra tội lỗi của mình và cầu nguyện tha thiết với Chúa thì anh mới được cứu.

    Cùng lúc đó tôi có thể cầu nguyện;
    Và từ cổ tôi thật tự do
    Chiếc Albatross rơi xuống và chìm
    Giống như chì đổ xuống biển.

    Trong cuộc sống cá nhân, Coleridge không phải là một người sùng đạo, nhưng trong bài thơ này, ông đã ca ngợi Kitô giáo một cách rất cao cả. Kitô giáo luôn yêu cầu các tín đồ cầu xin sự tha thứ của Chúa mỗi ngày. Nếu một người cầu nguyện từ tận đáy lòng, Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho họ. Bài thơ cũng thể hiện tình yêu sâu sắc của Coleridge dành cho đất nước.Anh. Khi người thủy thủ trở về từ chuyến đi của mìnhAnhanh ấy cảm thấy mình đã lên thiên đường

    Ôi! Giấc mơ vui sướng! Đây quả thực là
    Tôi thấy đỉnh ngọn hải đăng?
    Đây có phải là ngọn đồi không?
    Đây có phải là nhà thờ không?
    Đây có phải là đất nước của tôi không?

    Tóm lại, có thể nói rằng hai bài thơ này nằm trong số những bài thơ hay nhất về loài chim trong văn học Anh. Các nhà thơ đã sử dụng loài chim như những biểu tượng và gắn liền chúng với cuộc sống của chính họ. Những chú chim thật kỳ diệu nhưng ẩn chứa điều gì đó hơn cả phép màu. Chúng đưa ta đến một thế giới khác – một thế giới mộng mơ và lý tưởng. Điểm khác biệt chính giữa hai nhà thơ là đối với John Keats, chim họa mi dường như là một thứ gì đó trên bầu trời và nó không liên quan gì đến cuộc sống thường nhật của con người, mà là một thứ gì đó vượt ra ngoài cuộc sống bình thường của chúng ta. Mặt khác, chim hải âu St. Coleridge lại gắn liền với cuộc sống thường nhật của chúng ta. Những người thủy thủ đã cho nó ăn và chơi đùa với nó. Nó giống như người bạn duy nhất của họ giữa biển khơi mênh mông.


    In literature nature has always been considered as an important topic. As a natural object, birds are also have been mentioned in poetry. In fact, many poets have written many beautiful poems on birds. Birds are often used as symbols in poetry too. For example, in Bangla literature the cuckoo bird is often associated with spring time. In English literature there are many poems which are written about birds or birds play important role in the poems.

    For example, Ode to a Nightingale written by John Keats and Ode to a Skylark of P B Shelly are two very famous poems on birds. Another such poem is The Rime of the Ancient Mariner of Samuel Taylor Coleridge in which the poet has used the Albatross as a symbol. According to the requirement of the assignment I have selected Ode to Nightingale by John Keats and The Rime of the Ancient Mariner by S.T.Coleridge for my discussion.

    Before discussing the above mentioned two poems it is needed to cast some light on the two poets and the Romantic age in English literature as a whole. The Romantic Age in English literature is a unique era because in this age all the poets created their poetry on nature and nature related topics. Nature forms the main aspect of their poetry. Before them no poet could think of nature as the main theme of a poem. The Romantic poets have successfully implemented this theme. As a result, all the great poems about birds were written in this age. John Keats was a Romantic poet who has worshipped beauty of nature in his poetry. Natural objects become lively and beautiful in his poem however he does not treat them just as lifeless natural objects. Rather he mixed his own emotion and creates a personal attachment with them.

    He also expresses his own personal feelings such as happiness, sadness, hope, and frustration etc in his poems. In Ode to a Nightingale Keats has expressed a desire to escape from a harsh reality which he can not tolerate. He wants to join the nightingale and fly away into a dreamland.

    On the other hand S.T.Coleridge touched the supernatural elements of nature and has presented them in a very natural way. Coleridge had a brilliant sense of imagination and with his excellent narrative skills he could imagine the most supernatural thing and then describe it in the most natural way. In The Rime of the Ancient Mariner Coleridge has described the life of a mariner who had killed an albatross and then suffered immensely for killing it. The whole poem is based on the reaction of killing the albatross. A bird is a beautiful creation of god and by killing the albatross without any reason the mariner had committed a grave sin against god.

    Only at the twentieth century men learned to fly like a bird before aero plane was discovered men were always fascinated with the idea of flying like a bird. According to Greek mythology Daedalus and Icarus tried to imitate the birds and made artificial wings to fly. Their efforts failed in tragedy. So the concept of flying was like a dream to mankind until the beginning of the twentieth century people marveled at the birds because they could fly in the sky. The poets also appreciated this matter and their minds also wanted to fly with them. We see this kind of urge in Keats’ Ode to a Nightingale. The life of John Keats was a very tragic one he died early from a disease. He also had a depressing crush on a lady which brought him no success but only misery and in his own time some influential literary critics criticized his poetry in the worst possible way. So life became very miserable for John Keats.

    All his life he sought escape from the sufferings and in Ode to a Nightingale we find the desperate effort of Keats to escape from the harsh cruel world around him. He feels that nightingale is very lucky it can fly away from any place. In the beginning of this poem the poet refers to his miserable condition:

    MY heart aches, and a drowsy numbness pains
    My sense, as though of hemlock I had drunk,
    Or emptied some dull opiate to the drains
    One minute past, and Lethe-wards had sunk:

    Here it is evident that the poet was suffering a lot when he wrote this poem. Life has become too much painful for him he feels as if he has drunk hemlock or opium. He wants to forget all he pain and be happy in the happiness of the nightingale.

    For Coleridge the albatross is not a way of escaping but a holy and beautiful creation of god. It brings joy to the sailors. The sailors have to spend many lonely days within the sea during their voyage. So they often feel very lonely and do not get the opportunity to see any sign of life around them for days:

    At length did cross an Albatross,
    Thorough the fog it came;
    As if it had been a Christian soul,
    We hailed it in God’s name.

    So when they see an albatross they feel happy and get hopeful that land is near them. The same thing happened for the companions of the ancient mariner. When they saw the albatross they greeted it with joy and gave it food and played with it. Thus the albatross brought companionship for them. Thanks to the arrival of the albatross they could escape from the harsh loneliness around them. Coleridge has presented this bird as a friend and companion to men.

    Both the poems have used symbolism very skillfully. Coleridge has used the technique of willing suspension of disbelief where the readers will forget the real world and believe the world that the poet is presenting to be real. The plot of the poem centers around the idea of sin-suffering-praying-redemption. It is a poem with a moral touch. The mariner first committed a sin and then he suffered for it. After much suffering he prayed to God and then God forgave him. The mariner learnt his lesson and told others to show love and kindness to the creation of God. The albatross symbolizes Jesus Christ. The Mariner murdered the innocent bird who brought companionship and hope for him and his fellow sailors:

    And a good south wind sprung up behind;
    The Albatross did follow,
    And every day, for food or play,
    Came to the mariner’s hollo!

    In the same way the men of Jerusalem crucified Christ who was innocent and who brought hope for their salvation. The other mariners felt horrified when they found that the mariner had killed the albatross:

    And I had done an hellish thing,
    And it would work ’em woe:
    For all averred, I had killed the bird
    That made the breeze to blow.
    Ah wretch ! said they, the bird to slay,
    That made the breeze to blow!

    Normally, the song of nightingale is a symbol of joy and happiness. But Keats wrote this poem when he was suffering too much form his illness. Although he sought happiness through nightingale he knew in his heart that he was going to die soon. So, the symbols of death and forgetfulness are present in this poem. Keats has on numerous occasions referred to Greek mythology. By doing so he has treated the nightingale in such a way as if it was a magical bird which was beyond the reach of any sadness. So the bird is magical and free from human suffering. Keats wished that he could be like it and defeat all his pain and sadness. In his quest to end sadness he is like the Buddha. Buddha all his life sought to find a way to get free from human suffering and achieve salvation. Keats has the same goal and in this poem his nightingale has this magical power.The only problem is that Keats knows that he is a human being and can not be like the nightingale.

    In ‘Ode to a Nightingale’ Keats tries to make a good balance between sensation and thought. We can find extraordinary sensuous passages, as at the beginning. By using the word ‘sense’ and makes the readers feel this drowsy numbness too.

    The poet later deals with the problems of human life, as in stanza three:

    ‘Here, where men sit and hear each other groan;
    Where palsy shakes a few, sad, last gray hairs,
    Where youth grows pale, and spectre-thin and dies;
    Where but to think is to be full of sorrow.’

    In contrast to Keats, Coleridge uses the moral teachings of Christianity in The Rime of the Ancient Mariner. He has put a lot of emphasis on the concept of sin and redemption. Actually The Rime of the Ancient Mariner is like a fable that at first appeared to be a childish story without any deep significance but a closer look makes the readers realize that it contains the deepest of moral teachings. The moral lesson of The Rime of the Ancient Mariner is:

    He prayeth best, who loveth best
    All things both great and small;
    For the dear God who loveth us,
    He made and loveth all.

    Christianity teaches us the same thing- to love god and his creations. No other religion gives so much emphasis on this kind of love. The albatross gave this love to the mariners by bringing them joy and good luck. Thus the albatross is also a magical bird too. It is the bird which brings good luck and pleasant wind to the sailors. The ancient mariner acted selfishly and brutally by killing it. He only thought of his own pleasure. He did not even think that he was killing an innocent bird without any reason. He did not lack food but he certainly lacked kindness. He forgot that there was god who was more powerful than anyone. Certainly god did not like that he killed the bird without any reason.

    God showed the mariner that no matter how much power a man possessed they should not be unkind to nature. If they did not follow humanity then they would be punished. The punishment that the mariner suffered was terrible. He suffered the worst form of pain- loneliness and isolation. By nature human beings are social animals so being alone in a ship in an endless sea was surely terrible thing to suffer. He often wished that he had died but it did not happen

    An orphan’s curse would drag to hell

    A spirit from on high;
    But oh! more horrible than that
    Is the curse in a dead man’s eye!
    Seven days, seven nights, I saw that curse,
    And yet I could not die.

    Only after the mariner realized his sin and prayed to god deeply for forgiveness he was saved.

    The self-same moment I could pray;
    And from my neck so free
    The Albatross fell off, and sank
    Like lead into the sea.

    In his personal life Coleridge was not a very religious person but in this poem he has glorified Christianity in a very high manner. Christianity always ask its followers that they seek god’s forgiveness everyday. If a person prays from the core of his heart, god is always ready to forgive him. The poem also shows Coleridge’s deep love towards his country, England. When the mariner returned from his voyage to England he felt that he had come to heaven

    Oh! dream of joy! is this indeed
    The light-house top I see?
    Is this the hill? is this the kirk?
    Is this mine own countree?

    In conclusion it can be said that the two poems are among the greatest poem on bird in English literature. The poets have used the birds as symbols and have associated them with their own life. The birds are magical but they contain something more than magic. They take us to another world- a dreamy and ideal world. The main difference between two poets is that the nightingale appears to be something in the sky to John Keats and it has no relationship with everyday human life rather it is something which is beyond our normal life. On the other hand the albatross of S.T. Coleridge is something that is related to our every day life. The sailors fed it and played with it. It was like their only friend in an endless sea.

    Source by S M Mehdi Hasan

    An Appreciation of Jeladdin Rumi, 12th Century Poet

    Năm 1996, khi đọc sách của Depak Chopra, ông thường trích dẫn Jelauddin Rumi, một nhà thơ thế kỷ 12. Tôi thích những gì mình đọc và quan tâm nhiều hơn đến thơ Rumi. Tôi nhận ra rằng cho đến năm 37 tuổi, Rumi vẫn là một học giả nổi tiếng. Chính lúc đó, ông gặp một dervish lang thang đầy quyền năng, Shams xứ Tabriz, người đã thay đổi cuộc đời Rumi mãi mãi. Sau khi Shams mất tích, Rumi đã chuyển mình từ một giáo viên thành một nghệ sĩ và nhà thơ. Giờ đây, 800 năm sau, vào thế kỷ 21, ông đã tái sinh ở thế giới phương Tây của chúng ta, nơi ông đưa chúng ta thoát khỏi thế tục để bước vào thế giới vạn hoa mà tầm nhìn của ông mang lại.

    Tôi phải cảm ơn những người như Coleman Barks, một giáo sư thơ tại Đại học Georgia, người có tài năng dịch thơ Rumi sang tiếng Anh, nếu không chúng ta có thể đã không bao giờ được chứng kiến ​​cả một đời thơ ca, nghệ thuật và trí tưởng tượng mà ông để lại. Ví dụ:

    Vượt ra ngoài những ý niệm về việc làm sai và việc làm đúng
    Có một cánh đồng, tôi sẽ gặp bạn ở đó
    Khi tâm hồn nằm xuống bãi cỏ đó
    Thế giới quá đầy đủ để nói về.
    Ý tưởng. Ngôn ngữ, thậm chí cả cụm từ, lẫn nhau
    Đều không có ý nghĩa gì.

    Rumi là một người đa diện trong các tác phẩm của mình. Ông giàu lòng trắc ẩn, hoặc có thể dữ dội, hoặc đạo đức giả. Tùy thuộc vào ngày mà mọi khía cạnh của bản chất con người đều chảy qua ông. Tuy nhiên, tôi luôn cảm thấy ông là một người bạn luôn yêu thương bất chấp sự tàn bạo của bản chất con người.

    Trong suốt những thế kỷ qua, Rumi đã truyền cảm hứng, khích lệ và làm vui lòng độc giả của mình. Mặc dù được yêu thích qua nhiều thế kỷ, nhưng sự công nhận về thiên tài của ông bắt đầu ở phương Tây khoảng 100 năm trước khi các bản dịch tiếng Anh xuất hiện. Trên thực tế, sự quan tâm đến thơ của ông đã bùng nổ kể từ khi các biểu tượng nổi tiếng như Depak Chopra, Wayne Dyer, Demi Moore và Julia Cameron thường trích dẫn ông và bày tỏ lòng biết ơn đối với món quà mà ông đã tạo ra và chia sẻ thiên tài của ông với đông đảo người theo dõi của họ.

    Rumi còn hơn cả những người nổi tiếng. Bạn sẽ tìm thấy thơ của ông trong nhiều cuốn sách về sáng tạo, tâm lý học, kinh doanh, self-help và tâm linh, cũng như trên lịch, thẻ đánh dấu sách và thiệp chúc mừng.

    o Các họa sĩ minh họa vẽ nên những hình ảnh tình yêu nồng nàn của ông,

    o Các vũ công xoay tròn theo những ẩn dụ huyền bí của ông

    o Các nhạc sĩ ứng tác

    o Các nhà thơ ngâm những vần thơ xuất thần của ông.

    Để ghi nhận ảnh hưởng của ông trên toàn thế giới, UNESCO đã chỉ định năm 2007 là Năm Rumi. Khi tôi đọc một vài bài thơ Rumi, những vấn đề thường nhật dường như được trút bỏ khỏi vai tôi và tôi tự hỏi tại sao chúng ta lại bị thúc đẩy để dành thời gian và phục vụ người khác. Vậy mà chúng ta lại gọi như Rumi đã từng.

    Hãy đến, hãy đến, dù bạn là ai – kẻ lang thang, kẻ sùng bái, kẻ yêu thích sự ra đi. Điều đó không quan trọng. Đoàn lữ hành của chúng ta không phải là một đoàn lữ hành tuyệt vọng. Hãy đến, dù bạn đã phá vỡ lời thề của mình hàng ngàn lần. Hãy đến,


    In 1996 while reading Depak Chopra’s books he often quoted Jelauddin Rumi, a 12th century poet. I liked what I read and was interested in more about Rumi’s poetry. I found that until Rumi was 37 he was a popular scholar. It was then he met a powerful wandering dervish, Shams of Tabriz who forever changed Rumi’s life. After Shams disappeared Rumi transformed from teacher to artist and poet. Now 800 years later in the 21st century he is reborn to our western world where he removes us from the mundane into the kaleidoscope his vision brought.

    I have to thank people like Coleman Barks, a poetry professor at the University of Georgia who has the skill to translate Rumi’s poetry into English or we might never have seen the lifetime of poetry, art and imagination he bequeathed. For example:

    Out beyond ideas of wrongdoing and right doing
    There is a field, I’ll meet you there
    When the soul lies down in that grass
    The world is too full to talk about. Ideas.
    Language, even the phrase, each other
    Doesn’t make any sense.

    Rumi was multi-faceted in his work. He was compassionate, or maybe fierce, or a hypocrite. Depending on the day all sides of human nature coursed through him. Yet, I always felt like he is a friend who would love in spite of the atrocities of human nature.

    For all these centuries Rumi has inspired, encouraged and amused his readers. Although popular through the centuries the recognition of his genius began in the west about 100 years ago when English translations appeared. In fact interest in his poetry exploded since popular icons as Depak Chopra, Wayne Dyer, Demi Moore, and Julia Cameron often quote him and express gratitude for the gift he created and share his genius with their large followings.

    More than celebrities quote Rumi. You will find his poems in various books on creativity, psychology, business, self help, and spiritual, as well as calendars, bookmarks and greeting cards.

    o Illustrators paint his passionate images of love,

    o Dancers whirl to his mystical metaphors

    o Musicians improvise

    o Poets recite his ecstatic verses.

    In recognition of his world-wide influence, UNESCO has designated 2007 as The Year of Rumi. When I read a few Rumi poems the problems of the day seem to lift off my shoulders and I wonder why we are driven to devote our time and service to others. Yet we call as did Rumi.

    Come, come whoever you are – wanderer, worshipper, lover of leaving. It doesn’t matter. Ours is not a caravan of despair. Come, even if you have broken your vow a thousand times. Come,


    https://poets.org/poet/jalal-al-din-rumi

    Source by Bill Tallmon