SÁNG TÁC THEO CÁCH LÀM THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT
“Thơ Tân hình thức Việt kết hợp những yếu tố của thể luật và tự do, sáng tác với cả hai bán cầu não phải và trái. Cũng cần nhắc lại, thơ thể luật (vần điệu) sáng tác nghiêng về cảm xúc với bán cầu não phải, còn thơ tự do nghiêng về lý trí là loại thơ trí tuệ, với bán cầu não trái. Thơ Tân hình thức Việt phối hợp cả hai, giữa cảm xúc và trí tuệ, và nhịp điệu thơ là chiếc cầu nối. Trong não bộ, bán cầu não phải và trái được phân chia bởi mạng kết nối Corpus callosum. Người có Corpus callosum lớn có thể truyền tải dễ dàng dữ kiện giữa bên phải và trái não. Câu hỏi đặt ra, bán cầu não phải thuộc sáng tạo, còn bán cầu não trái thuộc phân tích, lý luận, nhưng tại sao tác phẩm sáng tạo lại đòi hỏi sự phối hợp của cả hai? Cái biết (ý tưởng mới hay ánh chớp lóe) đầu tiên thuộc bán cầu não phải, nhưng cái biết đầu tiên chỉ là cái biết từng phần, chưa đầy đủ và lập tức ghim thành thói quen nơi bán cầu não trái, cứ như thế cho đến khi cái biết (ý tưởng) đầy đủ trở thành kiến thức, nằm ở bán cầu não trái. Kiến thức phối hợp với các yếu tố khác tạo thành nội dung. Và nhịp điệu thơ, tương tự như mạng nối kết Corpus callosum trong não bộ, tùy thuộc cách làm thơ, phải đọc lên thành tiếng, hay đọc thầm trong đầu (đọc đi đọc lại nhiều lần), như vậy mới khơi dậy được cảm xúc và hòa nhập với nội dung, làm chuyển động quá trình sáng tạo. Đó là cách duy nhất để nhịp điệu có thể kết nối hai bán cầu não phải và trái với nhau trong sáng tác. Bởi vì nhịp điệu thơ thuộc bán cần não phải. Mà bán cầu não phải cần thiết cho việc am hiểu cảm xúc trong ngôn ngữ nói, thể hiện qua giọng hát, âm độ và sự chuyển giọng. Trái lại với nhịp điệu thơ, nhịp điệu văn xuôi thuộc bán cầu não trái, chỉ cần viết trên giấy như khi viết văn xuôi.”
Trích “Những bước đi mới hay câu hỏi về nhịp điệu thơ Tân hình thức Việt”
“Trường hợp, do thói quen tình cờ, một người làm thơ thường sáng tác vào những lúc nửa thức nửa ngủ, chuyện gì sẽ xảy ra? Trong khoảng thời gian đó, chúng ta tránh được sự can dự quá nhiều của tâm trí – khi suy nghĩ về thơ, chúng ta có thể dùng tâm trí để lý luận, tìm kiếm kiến thức, nhưng khi sáng tác chúng ta cần thóat khỏi những ràng buộc của tâm trí. Mỗi thể loại thơ có cách làm thơ khác nhau, thơ vần điệu dựa vào cảm xúc, thơ tự do dùng tâm trí, còn thơ Tân hình thức kết hợp giữa cảm xúc và tâm trí. Khi làm thơ, trong trạng thái lơ mơ giữa thức và ngủ đó, chúng ta phải tìm cách nhớ lại những câu chữ vừa mới sáng tác, bằng cách đọc lên (đọc thầm trong đầu), và đọc đi đọc lại nhiều lần, vì không có sẵn giấy bút để ghi lại. Khi sáng tác thơ vần điệu, người ta ngâm nga, mục đích làm những âm thanh bằng trắc và vần, nhịp nhàng với nhau, để tạo nhạc tính. Thơ tự do viết và sửa đi sửa lại trên trang giấy (đa số những nhà thơ tự do nổi tiếng, đều sửa đi sửa lại thơ họ). Còn thơ Tân hình thức, nếu không đọc lên thì làm sao phối hợp những âm thanh bằng trắc và những chữ lập lại trong bài thơ để tạo thành nhịp điệu? Những chữ kép lập lại đóng vai trò như vần trong thơ vần điệu, nhưng rải ra khắp bài thơ, nên không rơi vào sự đều đặn, hạn chế như vần ở cuối giòng của thơ vần điệu. Điều này làm cho nhịp điệu trong thơ Tân hình thức Việt phong phú và khác biệt, nơi từng bài thơ và từng người làm thơ, đẩy tới nhiều mức độ khác nhau, từ trầm lắng đến sôi nổi. Nhưng dù ở mức độ nào, người đọc cũng phải nhận ra được nhịp điệu thơ.
“Câu chuyện trên rút ra kết luận: Không có gì bắt buộc chúng ta phải sáng tác trong lúc ngủ, mà có thể sáng tác bất cứ lúc nào cảm thấy có hứng khởi, ban ngày cũng như ban đêm, lúc thức cũng như lúc ngủ. Trong trường hợp này, hành động đọc đi đọc lại nhiều lần, không phải để nhớ, mà để hình dung ra nhịp điệu của thơ. Và việc ghi lại trên giấy mới có tác dụng để nhớ. Khi đọc, và đọc đi đọc lại, sẽ hạn chế sự nghĩ của tâm trí, và bài thơ tiến hành theo những cảm nhận tự nhiên, chứ không phải từ những sắp xếp của lý trí. Sự ghi lại trên giấy khi bài thơ hoàn tất, chẳng khác nào quay trở lại một truyền thống mới là chữ in trong thời đại mà chữ in đang dần dần bị lãng quên, có lẽ là điều mà nhà thơ Frederick Turner gọi là ‘Truyền thống mới cái đẹp xưa’ chăng?”
Trích, “Nhịp điệu thơ Tân hình thức Việt trong tiến trình sáng tác”.
Một bài thơ Tân Hình Thức Việt điển hình phải đáp ứng các quy-/luật-tắc sau đây:
- Bài thơ phải mang hình thể một bài thơ trong những thể thơ Việt thông dụng!
- Bài thơ phải có ý tưởng và câu chữ liền lạc với kỹ thuật vắt dòng
- Sự lặp lại để tạo nhịp điệu phải tự nhiên và đa dạng theo cách làm thơ Tân hình thức Việt
- Bài thơ phải xử dụng ngôn ngữ thông thường
- Phải là thơ không vần chứ không là thơ vần điệu
Ngoài những yếu tố kỹ thuật, bài thơ được cho là hay còn tùy thuộc vào sự áp dụng nhuần nhuyễn và đồng bộ của các yếu tố kỹ thuật cùng ý tưởng mới lạ!
NHỮNG THÍ DỤ CỤ THỂ VỀ Ý TƯỞNG LIỀN LẠC
HAY THƠ DỊCH ĐỌC NHƯ TÂN HÌNH THỨC VIỆT
Qua những bài tiểu luận, chúng ta đã có cách làm thơ để tạo nhịp điệu, nhưng còn ý tưởng và câu chữ liền lạc phải làm sao? Chúng ta cần có những sáng tác cụ thể để qua đó phát triển khả năng sáng tạo của người làm thơ. Thơ tiếng Anh là loại thơ mạnh về cách diễn đạt những ý tưởng và câu chữ liền lạc, chắc hẳn sẽ giúp người làm thơ kinh nghiệm và áp dụng vào thơ Tân hình thức Việt. Có điều, thơ không thể dịch vì không thể dịch âm thanh và nhạc tính ngôn ngữ, từ Đông sang Tây, ai cũng biết như vậy. Đã có bao nhiêu bài thơ Đường luật dịch ra tiếng Việt, đạt như bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu do Tản Đà dịch? Có bài thơ tiếng Anh, tiếng Pháp nào dịch ra tiếng Việt đúng theo tiêu chuẩn thơ Việt như Hoàng Hạc Lâu? Chắc là không. Vì vậy mà người đọc Việt bình thường, từ trước tới nay, ít ai đọc thơ dịch, vì khô khan và không thấy gì lôi cuốn. Đó là lý do, qua phương tiện dịch thuật, mục đích của chúng ta đi tìm một tiêu chuẩn chuyển dịch để dịch một số bài thơ tiếng Anh, cả thể luật lẫn tự do, có thể đọc tương đương như đọc một bài thơ Tân hình thức Việt – dịch thành thơ, góp phần thay đổi định kiến từ trước tới nay, dịch là diệt. Dịch, như vậy, cũng nằm trong tiến trình của sáng tạo.
Điều ngạc nhiên, trong số những bài thơ tiếng Anh được chuyển dịch dưới đây có cả thơ thể luật và thơ tự do. Thơ thể luật tiếng Anh theo luật tắc của dòng thơ. Luật tắc thông dụng nhất là dòng thơ 10 âm tiết (mỗi âm tiết tương đương với một chữ trong tiếng Việt), iambic parameter (không nhấn, nhấn, lập lại 5 lần như vậy thành 10 âm tiết). Những nhà thơ thể luật gồm: Dana Gioia, Frederick Feirstein, Sydney Lea. Số còn lại là những nhà thơ tự do: Tom Riordan, Phillip A. Ellis.
Đối với thơ thể luật tiếng Anh, dòng 10 âm tiết, chúng ta dùng thể thơ 8 chữ để dịch. Còn những bài thơ của những nhà thơ tự do, chúng ta thấy có dáng dấp của những thể thơ Tân hình thức Việt. Nhưng thật ra, đó là thơ do những nhà thơ tự do sáng tác. Họ tạo ra hình thức thơ giống như những thể thơ nhưng không theo luật tắc như thơ thể luật. Số âm tiết mỗi dòng thơ không đồng đều, từ 5 tới 7 âm tiết. Sự tương đồng giữa những bài thơ thể luật và tự do nguyên tác tiếng Anh là cách diễn đạt với những ý tưởng và cảm xúc liền lạc. Điều ngẫu nhiên, cách diễn đạt này cũng trùng hợp với thơ Tân hình thức Việt. Mỗi ngôn ngữ, đơn âm hoặc đa âm, có văn phạm khác nhau, luật tắc và cách làm thơ khác nhau, vì vậy khi dịch thơ, tự do hay thể luật không phải là mối bận tâm của người dịch. Vấn đề quan trọng là tìm trong bài thơ nguyên tác có yếu tố chung nào với thơ Việt hay không, ở đây là cách diễn đạt. Thơ Tân hình thức Việt chủ trương nối kết giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và tự do, giữa nền văn hóa này và nền văn hóa khác, quan trọng hơn giữa bán cầu não trái và phải trong sáng tác. Chủ trương như vậy không hề có trong thơ Tân hình thức Mỹ. Nhưng không ngờ, trong thơ dịch, Tân hình thức Việt cũng có khả năng nối kết cả hai thể loại thể luật và tự do của thơ tiếng Anh.
Nhưng loại thơ này trong thơ Mỹ không phải dễ làm. Từ những nhà thơ đã quá cố như Williams Carlos Williams, Frank O’ Hara cho đến những nhà thơ đương thời như Tom Riordan, Phillip A. Ellis lâu lâu mới có một bài, còn đa phần là những bài thơ tự do thông thường. Vì thế, tuy không được coi là cách làm thơ chính thức, nhưng đang được phổ biến. Điều ghi nhận, một số nhà thơ trẻ hiện nay, cũng có khuynh hướng làm loại thơ dòng ngắn này nhưng bằng luật tắc thơ thể luật chứ không phải thơ tự do.
Như đã trình bày, những bài thơ dịch từ thơ tiếng Anh chỉ tiêu biểu cho ý tưởng liền lạc và câu chữ trong thơ. Còn nhịp điệu thơ Tân hình thức Việt, như chúng ta biết, tùy thuộc vào cách làm thơ, và vào bản thân của ngôn ngữ Việt.
Dana Gioia PITY THE BEAUTIFUL Pity the beautiful, the dolls, and the dishes, the babes with big daddies granting their wishes. Pity the pretty boys, the hunks, and Apollos, the golden lads whom success always follows. The hotties, the knock-outs, the tens out of ten, the drop-dead gorgeous, the great leading men. Pity the faded, the bloated, the blowsy, the paunchy Adonis whose luck’s gone lousy. Pity the gods, no longer divine. Pity the night the stars lose their shine. |
Dana Gioia TỘI NGHIỆP NGƯỜI ĐẸP Tội nghiệp người đẹp, những người đàn bà hấp dẫn, những người đàn bà thon gọn, những người đàn bà trẻ với những nhân tình ra vẻ, đang Ban phát cho họ những ước muốn. Tội nghiệp những chàng đẹp trai, những chàng trai lực lưỡng, và những chàng trai nam tính, những chàng trai vàng Mà sự thành công luôn luôn bám theo. Những người lôi cuốn sự thèm muốn, những người cám dỗ không cưỡng được, những người ở hạng thóp, những người Ngọai hạng, những người đàn ông hàng đầu hết sẩy. Tội nghiệp kẻ tàn lụi, kẻ béo phị, kẻ nhếch nhác, chàng đẹp trai nay đã bụng phệ Sự may mắn đến nước tồi tệ. Tội nghiệp những vị thánh không còn thiêng, tội nghiệp đêm, những vì sao đánh mất sự chói sáng. |
Ghi chú
Apollos và Adonis là những vị thần thời cổ đại La Hy, chỉ những chàng đẹp trai. Nguyên tác thì kiệm lời, nhưng bản dịch thì nhiều lời để làm rõ ý, một phần vì bài thơ dùng nhiều tiếng lóng.
Tom Riordan THE CAR WINDOW shattered into empty sunflower husks on the macadam and inside the bar a woman spit glass (*) into a tin ashtray and told her lover that neither of them was ever going to hit the other again. |
Tom Riordan KÍNH CỬA XE bị đập bể trông giống những vỏ rỗng hạt của hoa hướng dương trên đường trải nhựa và bên trong quán rượu một người đàn bà nhổ chiếc răng gẫy vào cái gạt tàn bằng thiếc và bảo người bồ rằng không một ai trong bọn chúng vào bất cứ lúc nào được đi đánh kẻ khác lần nữa. |
Ghi chú
glass: ám chỉ chiếc răng gẫy. “spit glass”, idiom, diễn tả sự tức giận.
Tom Riordan IMAGE THE SCAVENGER’S ECSTASY as he lowers himself into the bin and opens up the first big bag— this, after a week of mostly slugs and chewing over last year’s pretty much worked-over hickory nuts. Each night he tries the Italian deli’s door and tonight it was unlocked— each night he propositions every girl in the shot-&-beer joint and tonight every one of them said yes. He doesn’t need an eternity of bliss. One single glorious night like this, and then each night recalling it, and hoping that it happens again, is paradise enough for a raccoon. TWO SMALL FANS |
Tom Riordan TƯỞNG TƯỢNG SỰ NGÂY NGẤT CỦA KẺ VIẾT VĂN DÂM Ô Như hắn tự thả mình trong thùng rác Và mở cái bao lớn đầu tiên – điều này, sau một tuần ăn hầu hết những con ốc sên và nhai hết những hạt mại châu héo khô hơi nhiều năm ngóai Mỗi đêm hắn thử một cửa hàng Ý và đêm nay cửa hàng mở cửa – mỗi đêm hắn gạ gẫm một cô gái ở quán rượu rẻ tiền và đêm nay mỗi cô đều đồng ý. Hắn không cần niềm vui sướng vĩnh cửu. Một tối lẻ loi huy hòang như vầy, và để rồi mỗi đêm nhớ lại, và hy vọng trở lại đó là vườn địa đàng đủ cho một con gấu trúc. HAI QUẠT MÁY NHỎ |
Frederick Feirstein SHAKESPEARE If I could live a Muslim cabbie’s day Driving in traffic, parking at noon to pray In 96th Street’s Mosque, I’d stop to chat With vendors hawking fruit, pashminas, books Even about my centuries of fame; If I could be a New York City hack I’d give up every sonnet, every play, Not in disgrace with men’s eyes, not in shame For just one sandwich stuffed with sizzling fat Plump Falstaff (*) in a greasy apron cooks, I’d take blank time, not scripted Fortune, back. |
Frederick Feirstein SHAKESPEARE Nếu tôi có thể sống một ngày của Người tài xế taxi Hồi giáo lái Trong lúc đông xe, ngừng lại buổi trưa Cầu nguyện tại Thánh đường Hồi giáo đường 96, tán gẫu với những người bán Trái cây, khăn trùm đầu, sách, ngay cả Hàng thế kỷ tăm tiếng của tôi; nếu Tôi có thể là người tài xế taxi Ở thành phố New York, tôi sẽ từ Bỏ mỗi bài thơ, mỗi vở kịch, không Được trọng vọng dưới mắt mọi người, không Xấu hổ với chỉ chiếc bánh sandwich Nhét đầy mỡ nóng do Falstaff béo Tròn mặc tạp dề dính dầu mỡ làm, Tôi chọn một tương lai mở, không Phải thứ tương lai tiền định, ngược đời. |
Ghi chú
Sir John Falstaff là nhận vật trong kịch William Shakerspeare.
Frank O’ Hara MORNING I’ve got to tell you how I love you always I think of it on grey mornings with death in my mouth the tea is never hot enough then and the cigarette dry the maroon robe chills me I need you and look out the window at the noiseless snow At night on the dock the buses glow like clouds and I am lonely thinking of flutes I miss you always when I go to the beach the sand is wet with tears that seem mine although I never weep and hold you in my heart with a very real humor you’d be proud of the parking lot is crowded and I stand rattling my keys the car is empty as a bicycle what are you doing now where did you eat your lunch and were there lots of anchovies (*) it is difficult to think of you without me in the sentence you depress me when you are alone Last night the stars were numerous and today snow is their calling card I’ll not be cordial there is nothing that distracts me music is only a crossword puzzle do you know how it is when you are the only passenger if there is a place further from me I beg you do not go |
Frank O’ Hara BUỔI SÁNG Tôi phải nói với em làm sao tôi luôn yêu em tôi nghĩ về điều đó vào những buổi sáng xám với nỗi chết trong miệng rồi trà chưa bao giờ đủ nóng và thuốc lá khô chiếc áo khoác màu hạt dẻ làm tôi lạnh tôi cần em và nhìn tuyết im ắng ngoài cửa sổ trong đêm nơi vũng tàu đậu những chiếc xe buýt rực rỡ như đám mây và tôi lẻ loi nghĩ về những ống sáo tôi luôn mất em khi tôi ra bãi biển cát ướt với nước mắt dường như của tôi mặc dù tôi chưa bao giờ khóc và giữ em trong trái tim tôi với niềm vui thích em có vẻ tự hào bãi đậu đông xe và tôi đứng lúc lắc chùm chìa khóa chiếc xe hơi trống trơn như xe đạp bây giờ em đang làm gì em ăn trưa ở đâu và có nhiều cá trồng không thật khó nghĩ về em với không có tôi trong ý tưởng em làm tôi buồn phiền khi em ở một mình đêm qua những vì sao dầy đặc và hôm nay tuyết là danh thiếp của chúng tôi không thân thiết không có gì làm tôi sao lãng âm nhạc chỉ là trò đố chữ em có biết thế nào khi em là người hành khách duy nhất nếu đó là nơi xa hơn nơi tôi xin em đừng đi. |
Ghi chú
anchovy: tiếng Mỹ dịch nghĩa “cá trồng”; tương tự như cá cơm/ cá đối trong tiếng Việt
Phillip A. Ellis DEAD, WHITE WOOD Out of the futile grasp of ghost-white ghost gums, a cold moon rising, coloured the hue of cold smoke furling in flat, florescent shapes that were formed beneath an overarching lamp falling asleep in the declining hours of sinking mercury, and sleepiness settling like emptied dreams lazily turbulent as from cigarettes, ash-grey as moons in ghost gums’ ringbarked grasps,(*) I dream of the trees marching towards me, an orchard of dead, white wood. |
Phillip A. Ellis KẺ CHẾT, RỪNG TRẮNG Thoát ra khỏi sự nắm bắt vô vọng của những cây bạch đàn ma – ma trắng một mặt trăng lạnh nhô lên tô điểm sắc thái một làn khói lạnh gợn theo bề mặt tạo thành những hình dạng huỳnh quang bên dưới ngọn đèn trăng bao quát như ai đó thiếp ngủ lúc nửa đêm về sáng khi hàn thử biểu xuống thấp thấm lạnh và sự ngái ngủ làm thư dãn như những giấc mơ trống rỗng lộn xộn một cách uể oải được nhả từ khói của những điếu thuốc lá đầu ngày và màu xám tro không khác gì những mặt trăng phản ánh từ những khoanh nhẫn của vỏ những cây bạch đàn ma, tôi mơ những cây bạch đàn ấy bước đều về phía tôi, vườn cây của kẻ chết, rừng trắng. |
Ghi chú
ghost gums: một loài cây có vỏ trắng.
Ringbarked: vòng vỏ cây bị gỡ bỏ, nguyên nhân làm cho cây chết; bị coi là bất hợp pháp ở Úc.
Sydney Lea THE WRONG WAY WILL HAUNT YOU (Shouting a hound) Spittle beads as ice along her jaw on this last winter day. And when I lift her, all her bones are loose and light as sprigs of hay. For years her wail has cut the woods in parts, familiar. Host of hares have glanced behind as she ploughed on and pushed them to me unawares. Now her muzzle skims the earth as if she breathed a far dim scent, and yet she holds her tracks to suit my final, difficult intent. For years with gun in hand I sensed her circle shrinking to my point. How odd that ever I should be the center to that whirling hunt. Here a yip and there a chop meant some prime buck still blessed with breath, and in the silences I feared she’d run him to her own cold death. The snow that clouds my sights could be a trailing snow, just wet and new enough to keep a scent alive, but not so deep that she’d fall through. |
Sydney Lea TÌNH THẾ KHÔNG HAY THƯỜNG ĐẾN (Tiếng kêu một con chó săn) Những giải nước dãi như băng giá dọc quai hàm con chó săn vào ngày cuối đông. Và khi nhấc lên xương cốt nó lỏng lẻo và nhẹ như một cọng cỏ khô. Nhiều năm tiếng kêu quen thuộc của nó đã cắt khu rừng thành từng phần. Đám thỏ liếc nhìn phía sau không biết nó đã rẽ và đẩy chúng tới tôi. Bây giờ mõm nó là đà dưới mặt đất như thể sự thính mũi của nó đã lờ mờ xa, và lúc này ý định giữ vòng săn đáp ứng mục tiêu với nó là khó. Nhiều năm với cây súng trong tay tôi có cảm giác nó đã bắt đầu già. Tôi chưa bao giờ trông chờ là trung tâm cuộc săn cuồng quay đó. Đây là tiếng sủa và kia là con mồi, có nghĩa là vài con nai tơ vẫn sống, và trong yên lặng tôi sợ việc săn đuổi đã mang tới cái chết lạnh cho chính nó. Tuyết phủ tầm nhìn của tôi có thể là tuyết vẽ thành vệt, ướt và mới đủ để giữ sự thính mũi tồn tại, nhưng không quá sâu rằng nó đã thất bại. |
Khế Iêm chuyển dịch
Tranh bài: tranh Winslow Homer (1836-1910): Poet of the Sea