Giới thiệu Diễn đàn thơ Tân hình thức Việt
www.thotanhinhthucviet.vn/diendanTHT
_____________________________________
Ý NGHĨA NỘI TẠI CỦA THỂ THƠ
____________________________
Frederick Turner
Điều trở nên rõ ràng, lúc này, trong lịch sử văn học Hoa kỳ, khuynh hướng năng động và đầy hứa hẹn nhất của thơ bây giờ là phong trào Mở rộng, hay Tân hình thức như đã được biết. Tạp chí định kỳ, hội nghị, tuyển tập thơ, tiểu luận phê bình và những chuyên khảo công nhận và tán dương bước ngoặt thi pháp này; những nhà thơ trẻ ôm lấy phương thức mới hoặc ít nhất quan tâm tới lý thuyết của nó.
Như vậy đây là lúc tốt nhất đặt phong cách này trong thử nghiệm – để xem đó hoặc chỉ là một phong cách, hoặc có triển vọng sâu xa và biến hóa tự nhiên nào trong nghệ thuật thơ ca, mang thực hành tới gần chức năng thực sự của nó hơn. Như một trong những người sáng lập và phát ngôn cho phong trào, tôi nhận ra, nếu chỉ thuần thể luật và truyện kể, dù khéo léo và đáng phục cũng chưa đủ; thơ hay đã được viết bằng thể tự do, thơ tầm thường được viết bằng niêm luật, những luật tắc tinh xảo và cấu trúc khéo léo của truyện kể. Triển vọng của khuynh hướng mới sẽ chỉ hiện thực khi những nhà thơ và người đọc có khả năng sử dụng yếu tố thể luật thơ ở mức sâu xa nhất, như bùa phép hoặc kỹ thuật tâm linh để mở cánh cửa giữa con người và thiên nhiên, ý thức và vô thức, hiện tại và quá khứ, lý trí và hỗn mang, đời sống và cái chết. Hoặc hơn nữa, ngay cả để gợi ra tính nhị nguyên, bị phản bội bởi ngôn ngữ, không thơ, thiếu khả năng khoa học sâu xa, làm cho tính nhị nguyên biến này mất.
Khi đáp ứng với luật tắc hoặc tình tiết thần thoại của bài thơ, chúng ta đang làm như một giống người khôn ngoan, một động vật cấp cao, một động vật có vú, có xương sống, một sinh vật, một bộ phận phức tạp và kỳ diệu của hóa học các-bon, trò chơi của hạt vật lý và lực, nút cuộn của không thời gian. Một cách khác, chúng ta không bị hạn chế, như bản tường trình bao hàm vô hạn, đối với chỉ mức mới đây của tiến hóa sinh vật, dẫn đến vùng ngữ học đặc biệt ở vỏ não thái dương, nhưng được tỏa ra trong toàn lịch sử tiến hóa.
Sự vui thú về luật tắc, như tôi đã tường trình trong The Neural Lyre, căn cứ trên nhịp ba-giây trong chu kỳ tiến hành thông tin con người, hay thần kinh hiện tại, và trung gian bởi sự tiết ra của vật dẫn truyền thần kinh cổ xưa. Nghiên cứu mới đây của Colwyn Trevarthen và Ellen Dissanayake cho rằng những bà mẹ và trẻ sơ sinh điều khiển cuộc trò chuyện tiền ngôn ngữ trong một thứ thánh ca “mẹ” (motherese) 1, và loài động vật có vú điều khiển sự chuyển động tiếp tục múa nhẹ, chú tâm tới lực kéo, và động tác diễn đạt trong chu kỳ ba-giây. Nhưng luật tắc quan trọng của thơ ở mức độ sâu xa hơn nhiều. Như nhà tâm lý ngữ học Michael Lynch và Kim Oller nhận ra, trong ô cửa ký ức, cứ khoảng ba-giây, chứa được 10 nhịp đập, tương đương với những âm tiết hoặc một khoảng ngừng ngắn nhất mà những phản xạ hành động của con người có thể còn tác dụng; trong vòng 1/3 giây này ẩn chứa 10 nhịp đập, bằng với khoảng ngừng tối thiểu, qua đó có thể nhận ra trật tự của hai âm thanh khác nhau; nói cách khác, trong khoảnh khắc rất nhỏ này chứa 10 khoảnh khắc nhỏ hơn, và chúng ta có thể nhận diện bất cứ gì trong cái khoảng ngừng tối thiểu này. Bộ óc dùng luật tắc trong đó thần kinh nung nóng được hoán đổi, mang thông tin chính xác về những gì được nhận thức hoặc ghi nhớ, và chất men cùng cơ xưởng RNA kiến tạo chất đạm của cơ thể thăm dò trung tâm sưu tầm DNA của nó trong một dạng thức nhịp điệu phân cấp phức tạp. Ilya Prigogine cho rằng phản ứng hóa học liên hợp, đặc biệt là chất xúc tác liên hệ này có một cấu trúc nhịp đập thời gian, và nhà vật lý và hóa học lượng tử đã biết từ lâu, vật chất có thể diễn tả như những cái nút ở đó năng lực lượng tử của tính chu kỳ cục bộ và khác nhau tìm ra giải pháp hài hòa – giống như một loại vần.
Như vậy, khi nhà thơ dùng và thính giả nghe luật tắc, bước đầu tiên của nhận thức hữu cơ, hòa nhập vào vũ trụ vật lý; chúng ta hiện hữu, nếu thích, ca ngợi sự tham dự vào sự hiện hữu của chính Gaia (Gaia herself) 2. Chúng ta khẳng định sự đơn độc với toàn thể quá khứ của thế giới, làm cho nó khả thể vì sự sáng tạo, để phát ra lực sáng tạo đi xa hơn khả năng của những trung tâm ngữ học tinh tế. Thơ trở thành bản dịch tăng tốc của chính sự tiến hóa, phản hồi thần diệu giữa những biến đổi, chọn lọc, và tính di truyền, sản xuất hoa phong lan, tinh dịch cá voi, siêu vi hình rạn thuốc lá, gấu trúc vĩ đại và đá ngầm san hô.
Có lẽ, điều này là ý nghĩa của huyền thoại Orpheus 3, nhà thơ đầu tiên của huyền thoại Hy lạp, giống như Solomon 4 hoặc Bồ tát Vyasa 5, nhà thơ huyền thoại của Mahabharata, có thể nói ngôn ngữ của động vật, thảo mộc và đá. Hành trình của Orpheus tới địa ngục và trở lại (như Virgil nói, bất cứ kẻ lừa đảo nào cũng có thể xuống đó, nhưng để trở lại – đây là lao động, là công việc) không phải chỉ tìm người vợ đã mất, Eurydice. Sự tìm kiếm người vợ đã mất có nghĩa là hồi phục sự nối kết hữu cơ với phần còn lại của vũ trụ. Đó là điểm mà Orpheus làm trong cuộc hành trình, bởi vì hắn sở hữu và có thể dùng đàn lyre, khí cụ mà những nhà thơ Hy lạp dùng để đo luật tắc và làm vần cho dòng. Lyre mở ra cánh cửa địa ngục; và khi Orpheus mất niềm tin về ảo thuật, ngoái lại xem Eurydice có còn theo sau không, một cách bi đát, hắn đã mất cô ta mãi mãi.
Chúng ta có thể lần theo lý luận bí ẩn của huyền thoại xa hơn; vì lyre của Orpheus (và của người cha Apollo) là nguyên nhân sự khám phá của Hermes 6, kẻ đổi lấy chiếc gậy trượng (caduceus),7 cái roi rắn cuốn dùng để ứng xử với định mệnh giữa những mảnh đất sống và chết. Vòng xoắn đôi của hai con rắn là kiểu mẫu chính xác của hình thể phân tử DNA; và điều đó không phải ngẫu nhiên, vì vòng xoắn đôi là biểu đồ trực giác của bất cứ tiến trình phản hồi nào, và DNA là tiến trình phản hồi của những tiến trình phản hồi. Nếu lyre, trong một vài ý nghĩa tương đương với chiếc gậy trượng, có thể kết luận, luật tắc của thơ tương tự như luật tắc của sự tái tạo sinh học và tiến hóa. Đó là sự thấu hiểu trung tâm những sonnet của Rilk về Orpheus. Những bản khác về loại bùa chú này là cái sáo ảo thuật của Mozart và de Ponte, cành cây vàng của Virgil, tiếng nói từ Chúa của Moses (cũng kết hợp của roi và rắn), tiếng trống của thầy phù thủy Á châu, kèn của những du sĩ ca thời Magyar cổ đại – có lẽ ngay cả “Mcguffin” của Alfred Hitchcock 8.
Đây là dịp tốt để nhấn mạnh vào luật tắc. Người ta có thể nhiều lần cùng tranh luận về kỹ thuật truyện kể, cái hệ thống kỳ diệu đến một lúc nào đó, lấy lại sự kỳ lạ của nó, bất cân xứng, phi không gian. Một câu truyện, giống như một giai điệu, có thể trở lại bất cứ chuỗi nào của những biến cố, phô bày ra một lần không tránh khỏi, xảy ra nhưng không thể đoán trước chúng xảy ra; bởi chính những biến cố dẫn đến một loại vũ trụ mới, tiền thân của chúng bây giờ ràng buộc không thể đảo ngược với những nguyên nhân. (Thí dụ dày đặc của điều này là truyện trinh thám, sự giải quyết rõ ràng do nhà thám tử vén màn lên, nhưng không phải trước đó). Trong ý nghĩa này, có lẽ chúng ta chấp nhận chiếc gậy trượng của Hermes, để trở ngược lại điều biết trước của câu truyện, và những con rắn là tính thay đổi của sự không biết trước. Sự không đoán trước của câu truyện làm chúng ta muốn biết những gì xảy ra kế tiếp – và điều này tại sao Sultan chừa ra cuộc đời của người kể chuyện Sheherezade 9, và Minos 10 chừa ra cuộc đời của Orpheus. Trong ánh sáng lưỡng tính này của luật tắc mang sự thinh lặng có ý nghĩa sâu xa. Dạng thức cố định những âm tiết nhấn và không nhấn (hoặc âm tiết dài và ngắn, giọng đổi và không đổi của thơ Trung hoa) có cùng mối liên hệ với dạng thức thay đổi của ngữ điệu nói, trôi nổi trên bố cục cố định, những yếu tố biết và chưa biết của một câu truyện. Hoặc chúng ta có thể nói rằng luật tắc là câu truyện vi mô, và câu truyện là luật tắc vĩ mô.
Như vậy, nếu chúng ta trở lại một cách nghiêm chỉnh luật tắc và truyện kể được công bố bởi những nhà thơ Tân hình thức và Mở rộng, toàn bộ trách nhiệm xã hội, tưởng tượng và trí tuệ mới mẻ, mở ra cho nhà thơ. Hoặc có lẽ, nói chính xác hơn, trách nhiệm cũ sẽ trở lại trong một hình thức mới. Trên thực chất, những nhà thơ của thời đại đang tới phải là những thầy phù thủy. Một thầy phù thủy không chỉ nói tiếng nói riêng tư về những âu lo riêng tư, hoặc diễn đạt thẩm mỹ, triết học, quan điểm chính trị thuần cá nhân. Một thầy phù thủy phát ngôn với, và cho, toàn thể nền văn hóa, sự phát ngôn kết hợp những trầm ngâm chung và sâu xa nhất, như sự tiêu biểu của nó khi bàn thảo đến sự khôn ngoan chết của chính nó. Hơn nữa, phần vụ của thầy phù thủy là để có một vài tầm rộng công cộng, ngay cả quần chúng, để bán những viễn kiến ngoài thị trường, để nghe và trả lời đối với nhu cầu và mong ước của thân chủ mà họ là lương tri.
Thầy phù thủy mới phải học thổ ngữ của bộ lạc – và bộ lạc đó bây giờ là toàn cầu, là nhân loại. Thổ ngữ quan trọng nhất là thỗ ngữ mà mọi người đều chia sẻ, phương tiện truyền thông chính thức của trao đổi và tiêu chuẩn của đồng thuận – đổi chác, luật lệ, kỹ thuật, và trên hết, khoa học. Khoa học là cách chúng ta học ngôn ngữ của tất cả phần còn lại của thiên nhiên, ngoài phạm vi con người, và như vậy quan trọng hơn cả đối với một nhà thơ mới, cần biết hơn là đổi chác và luật lệ. Kỹ thuật nối khoa học với những thứ khác – kỹ thuật đặc biệt của nhà thơ là luật tắc, truyện kể và tưởng tượng (mà tôi không đề cập đến ở đây vì nó đã được nói đến ở đâu đó).
Nếu chúng ta chấp nhận trách nhiệm của thầy phù thủy, rất nhiều điều kỳ diệu, nhà thơ khó hoàn tất bất thình lình trở nên dễ dàng. Một trong những điều đó là tìm kiếm chủ đề: chúng ta bận tâm tới việc giáo dục và chữa lành người đồng thời, chỉ cần nói về những gì họ cần biết và nghe. Những chuyện khác thì buồn cười. Một lúc nào đó chúng ta nhận ra chính mình như một loại đặc biệt của loài động vật có vú cao cấp, bị mắc bẫy và hiện thân trong trò chơi cụ thể của sự hiện hữu vật lý, bị đẩy vào sân khấu của sự giao tiếp sai, để cho và nhận những món quà của người khác, và để sống còn. Shakespeare, có lẽ là thầy phù thủy lớn nhất của mọi thời đại, đáp ứng mọi tiêu chuẩn khó khăn, đã biết tất cả những điều này rất kỹ. Tiềm năng sẵn có khác, bất thình lình sẽ được thấu suốt. Thay vì căng thẳng với những khái niệm buồn chán hàng ngày vì một vết bẩn giống như phiêu sinh vật trong nội tâm, chúng ta hầu như gặp phải vấn đề đối nghịch: làm sao cho phép lạ thành hiện hữu, với những mức độ vo ve và reo vang của sự phức tạp đồng tâm, đủ cục bộ để chuyên chở trong một hình ảnh hay một chuyện vặt. Cuối cùng, thầy phù thủy thật sự sẽ tìm ra sự hiếm hoi của tất cả những tiềm năng đương thời: thính giả thật sự, một nơi công cộng, không dẫn nhà thơ hy vọng nhận ra chính những cố gắng của thơ, không lôi cuốn bởi ma thuật mờ nhạt của những thành tích thi ca ở thời đại khác, không hy vọng chia sẻ tình thân của sự thất bại văn hóa và xã hội; nhưng cùng đến với nhau trong niềm vui sâu xa, cổ xưa, nghi lễ đặc biệt của sự kiến tạo thế giới.
Ltt chuyển dịch
- Motherese theory: Nghiên cứu về cách tiếp nhận ngôn ngữ tự nhiên của trẻ thơ (tới khoảng 5 tuổi) từ người mẹ. (Ghi chú của ND).
- Gaia theory: Khoa học về đời sống trái đất. Nhà hóa học và khí quyển James Lovelock và nhà sinh học tiến hóa Lyn Margulis cho rằng trái đất tồn tại, phẩm chất giống như đời sống (life-like quality) xuất hiện từ sự tác động của sự hiện hữu các đời sống khác nhau và với hệ thống phi đời sống trên hành tinh (đá, khí quyển và đại dương), có khả năng tự điều chỉnh những cá tính bản thể của môi trường chung quanh, như nhiệt độ trung bình, chất mặn của đại dương, hỗn hợp chất khí (oxygen và carbon) trong khí quyển. (Ghi chú của ND).
- Orpheus là con của Apollo và Calliope, được cha là Apollo cho một cây đàn lyre và dạy cách sử dụng. Tài âm nhạc của Orpheus điêu luyện đến độ, không những quyến rũ muông thú mà cả đất đá, cỏ cây. Hắn dùng cây đàn lyre, xuống địa ngục để tìm vợ, Eurydice, bị rắn cắn chết. Hắn gặp vợ và chỉ có thể làm sống lại với một điều kiện: trên đường đi, hoàn toàn im lặng, không được ngoái lại nhìn người vợ theo sau. Nhưng không may, khi gần tới trần gian, trong khoảnh khắc hắn quên lời hứa, ngoái lại nhìn xem vợ mình có còn theo sau không, lập tức Eurydice tan biến mất. (Ghi chú của ND).
- Solomon: Con của vua David, nước Do Thái cổ, lên ngôi vào năm 970 B.C lúc còn rất trẻ, ghi dấu sự mở rộng bờ cõi Do thái, và liên minh với Ai cập và Phoenicia. (Ghi chú của ND).
- Bồ tát Vyasa đang nhập định tại Hi mã Lạp sơn thì được thần Brahma xuất hiện, truyền viết kinh Vệ Đà (Bồ Tát) Mahabharatham, vì lợi ích của con người. Bồ tát Vyasa cầu thần Ganesha viết xuống trong lúc ngài hát vì ngài không thể viết. Thần Ganesha bận vô số việc nên yêu cầu Bồ tát hát thật nhanh, đổi lại Bồ tát cầu thần Gansha phải hiểu nghĩa từng câu thơ trước khi viết xuống. Khi nào Bồ tát cảm thấy thần Ganesha viết quá nhanh, ngài lại đọc một câu thơ thật khó, và trong lúc thần Ganesha tìm hiểu nghĩa thì ngài có thời gian chuẩn bị sẵn một số câu thơ trong đầu. (Ghi chú của ND).
- Hermes: con của Zeus và Maia. Khi nữ thần Kalypso giữ Odysseus quá lâu trên đảo, Hermes được Zeus gửi tới để truyền lệnh phải thả Odysseus về nhà. Hermes là sứ giả, kẻ truyền rao sự bất tử. (Ghi chú của ND).
- Caduceus: Cây gậy tiêu biểu của sứ giả, một điềm báo. (Ghi chú của ND).
- Alfred Joseph Hitchcock (1899-1980): Nhà đạo diễn người Anh. (Ghi chú của ND).
- Hoàng hậu Sheherezade, người kể truyện Ngàn lẻ một đêm. (Ghi chú của ND).
- Minos, thần thoại Hy lạp, vua đảo Crete, con của Zeus và Europa. Vợ của Minos là Pasiphae sinh ra Androgeus, Glaucus, Ariadne và Phaedra. Vì Minos không chịu hy sinh cho thần Poseidon con bò đực trắng nên thần khiến cho Pasiphae hoài thai một con vật sinh ra Minotaur, một con quỉ đầu bò mình người. Minotaur bị nhốt trong một mê cung. Khi vua Aegeus của Athens giết Androgeus, Minos trả thù và buộc Athens phải triều cống hàng năm bảy thanh niên và bảy thanh nữ. Những người này bị nhốt trong mê cung, hoặc bị chết đói hoặc bị ăn tươi nuốt sống. Cuối cùng Theuseus cùng những nạn nhân này giết chết Minautor. Cùng với Aecus và Rhadamanthus, Minos trở thành một trong ba vị phán quan của Diêm vương Hades. (Ghi chú của ND).
Tranh bài:
Scrawl, 2014, Acrylic, newspaper and stencil casings on canvas, 48 x 60 in. Image courtesy Waterhouse & Dodd.
Bernie Taupin’s Painted Words