GIỚI THIỆU DẤU QUÊ
INTRODUCTION TO TRACES OF MY HOMELAND
Tom Riordan
Tập “Dấu Quê” của Khế Iêm có tính đổi mới, nét hấp dẫn, lại dễ hiểu, tất cả cùng một lúc – là điều hiếm có trong thơ! Bài thơ đầu tiên cung cấp một dẫn nhập tốt về thi pháp của ông, cũng như về sự phát hiện của tập thơ rằng chúng ta làm gì với những hồi ức đầy tiềm lực [để bùng phát] về những nơi chốn chúng ta đã mất đi: trút hơi thở Chúng ta thảy đều từng bị đuổi khỏi nhiều nơi chốn, khởi đầu là khỏi tử cung người mẹ, và rồi vào một thời điểm nào đó, khỏi tuổi thơ. Chúng ta đã từng lìa khỏi – hoặc là, trái với ý nguyện của chúng ta, từng bị buộc phải lìa khỏi – những người, những ngôi nhà, những thành phố, những quốc gia. Những gì chúng ta còn lại là những hồi ức của một bản ngã xưa cũ mà nó cùng đi theo tới nơi ở mới của chúng ta, nơi mà tại đó chúng ta cần phải xây đắp một bản ngã mới. Chúng ta xử trí thế nào với những hồi ức đó? Trong bài thơ có tựa đề “Dấu Quê”, Khế Iêm tự hỏi liệu là đủ chăng khi phà vào lũ mục pha với khói và Trong bài “Với Gió”, ông suy tính xem liệu có thể ngồi lênh đênh trên đồi tranh cởi nắng Xuyên suốt những bài thơ đó, là nét thuần nhất rõ rệt. Hầu như bất kì bài thơ nào cũng có thể biểu trưng cho toàn tập thơ, tuy thế lại không là sự lặp lại. Hết thảy chúng ta, hoặc là phố lai lai (cáu) hoặc duỗi một chân câm như thóc túm lấy hồn nhiên Cố gắng neo chặt vào những vấn đề thực tiễn của cuộc sống, nhưng ông nhìn ra nét hài hước trong chúng – mai nhớ ra ga trở về nơi chôn nhau Như vậy, đâu là sự dự đoán của ông, và của chúng ta? Có những tình câm Chúng ta có được những cơ hội. Như trong bài “Ấm Ớ”, nếu chúng ta đủ mạnh để trói chặt Nếu chúng ta có thể gom đủ niềm can đảm để giữ được một khoảng cách nào đó giữa bản thân chúng ta với quá khứ, thì chúng ta có thể thành công trong cuộc di cư tị nạn. Trong bài thơ cuối cùng, “Gửi Người Đồng hành”, những người nhập cư thành tựu đó rời bỏ nguồn gốc của họ – dù đó là nơi trước-khi-ra-đời, là tuổi thơ, hoặc quê hương – đang run lên vì mưa sa Đối với tôi, đó dường như là khoảnh khắc mà nhà thơ đã tới được một nơi nào khác, đã nói lời chào tạm biệt cái xưa cũ, và cuối cùng dường như sẵn sàng để bước vào và ngụ cư tại nơi nào đó mới mẻ. Vậy nên vào lúc này tôi đã trông đợi tập thơ kế tiếp của Khế Iêm rồi. Ông ta đã tới được nơi đâu? Ông đã tìm kiếm được những gì? Cái tôi mới của ông sẽ nói lên những gì, khi giờ đây ông không còn là một di dân, mà là một lãng tử? Phạm Kiều Tùng dịch |
“Traces of My Homeland” by Khe Iem is innovative, fascinating and clear, all at once – rare, in poetry! The first poem gives a good introduction to his poetics, as well as to the book’s exploration of what we do with potent memories of places we’ve lost: pour out breaths We’ve all been kicked out of places, starting with the womb and then, at some point, childhood. We have moved away from – or been removed against our will from – people, houses, cities, nations. What we are left with are powerful memories of an old self that comes along to our new location, where we need to construct a new self. How do we deal with those memories? In his title poem “Vestiges,” Khe Iem wonders if it is enough to breathe life into All through these poems, there is a fine unity. Almost any of them could represent the whole collection, yet there is no repetition. Whether we are all A town of half-breeds (angered) or stretching one leg out Khe Iem’s viewpoint is pragmatic and compassionate, grasping for the natural Trying to stay anchored in life’s practicalities, he sees the humor in them – tomorrow remember to leave for the station to return So then, what is his, and our, prognosis? There are feelings of falling in love We have opportunities. If, as in “Stammering,” we are strong enough to bind If we can gather up enough courage to put some distance between ourselves and the past, we can successfully emigrate. In the last poem, “To Those Who Made the Journey,” these successful immigrant leave their origins – whether prebirth, childhood or homeland– shuddering in a heavy rainfall To me, this feels like the moment where the poet has arrived somewhere else, has said goodbye to the old, and finally feels ready to enter and inhabit something new. |
Bạn đọc có thể đọc trực tiếp hoặc đặt mua sách, báo
đóng góp, thơ, tiểu luận xin Gửi về Diễn đàn hoặc Email về Ban Biên Tập
Chân thành cảm ơn!
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
AUTHOR’S NOTES
Tập thơ “Dấu Quê” được sáng tác trong khỏang 1994 – 1996, xuất bản lần thứ nhất tháng 12 – 1996. Đây là tập thơ tự do, sau tập thơ vần điệu được sáng tác tại Việt nam, tập “Thanh Xuân”, theo phong cách truyền thống thơ Việt, ý ở ngòai lời. Thơ tự do “Dấu Quê” chủ vào việc tìm kiếm cấu trúc thơ trong quan điểm hình thức và nội dung là một, khác hẳn với những dòng thơ tự do Việt nam trước đó, đặc biệt là vào thập niên 1960 ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, chủ vào cái hay của ngôn từ. Có thể nói, do sự khác biệt khí hậu văn hóa đã tạo ra hai cách làm thơ khác hẳn. Nhà thơ Tom Riordan cho rằng, “Những gì chúng ta còn lại là những hồi ức của một bản ngã xưa cũ mà nó cùng đi theo tới nơi ở mới của chúng ta, nơi mà tại đó chúng ta cần phải xây đắp một bản ngã mới. Chúng ta xử trí thế nào với những hồi ức đó?” Điều đó có thể đúng với đời sống hiện thực, nhưng trong thơ thì sao? Tôi cho rằng khi hòa nhập vào khí hậu văn hóa khác, chúng ta không hề rời bỏ cái ngã cũ hay tạo ra cái ngã mới, mà thật ra chúng ta hòa nhập vào cái không–ngã. Nếu không thì chúng ta chẳng bao giờ tạo ra được một dòng thơ khác. Sau “Dấu Quê”, tôi không còn làm thơ vần điệu hay thơ tự do nữa, mà chuyển qua thơ Tân hình thức Việt, một thể loại nối kết được rất nhiều yếu tố thơ từ truyền thống tới hiện đại, từ thơ tiếng Anh tới thơ tiếng Việt. Đưa tới khả năng, báo hiệu những sáng tác mang tính tập thể. Bởi trong thời đại của mạng xã hội, mỗi cá nhân vừa hiện diện, vừa không hiện diện, mập mờ giữa ảo và thực. Mạng xã hội nối kết và hoà tan con người thành những hiện thân (avatar) vô danh. Vì thế, sáng tác đơn lẻ của một cá nhân cần kết hợp với những sáng tác tập thể để đáp ứng với tầm vóc của thời đại. “Mỗi nhà thơ như một tinh cầu cô lẻ, mở ra một lối riêng chỉ vừa một người đi trong cái dù che của từ pháp, chỉ vài năm là bí lối. Trong khi thơ, đáng ra không thể là tiểu lộ, phải là đại lộ, hàng ngàn người cùng đi mà vẫn rộng thênh, không thấy đường cùng.” (Bước Ra, Khế Iêm, Tan Hinh Thuc Publishing Club) Tập thơ song ngữ Tân hình thức “Thơ Khác”, xuất bản năm 2011, cùng với “Dấu Quê” là hai tập thơ sáng tác ở Mỹ, như được sinh ra trong sự tình cờ của lịch sử, bởi nếu không có ngày 30 tháng 4 – 1975 thì tôi không có mặt trên đất nứơc này. Tôi chân thành cám ơn nhà biên tập Carol J. Compton, dịch giả Do Vinh và nhà thơ Tom Riordan đã dành cho tôi rất nhiều cảm tình trong cuộc hành trình đầy thi vị này, của thơ. |
This collection of poetry, “Traces of My Homeland”, was composed by Vietnamese language between 1994 and 1996 and was published as “Dấu Quê” in December of 1996. It is structural poetry which form is only an extension of content. Another formal poetry collection (including some free verse), “Thanh Xuân” (Youth), which I composed a long time ago in Viet Nam (1970s and 1980s) depended on excellent words and an idea-beyond-words. “Thanh Xuân” was composed in Viet Nam; “Traces of My Homeland” was composed in the United States. So we can say that the cultural climate creates different ways of composing poetry. Poet Tom Riordan wrote, in the introduction to “Traces of My Homeland”, “What we are left with are powerful memories of an old self that comes along to our new location, where we need to construct a new self. How do we deal with those memories?” This would be true in real life, but how about in poetry? I think that when we integrate ourselves into different cultural climates, we never leave the old self or create a new self but instead integrate into the no–self. If we do not integrate into the no-self, we cannot fly into a new space to make a differ- ent kind of poetry. After writing “Dấu Quê”, I discovered a movement of American New Formalists that already existed and joined with them; then I founded Vietnamese New Formalism. Vietnamese New Formalism is a kind of poetry which links many principles together, from traditional to modern, from English language to Vietnamese language poetry, and predicts composition by the masses. Maybe in the age of Facebook, “each individual has a presence, without being present, creating ambiguity between the virtual and the real. Social networks and personal connections dissolve into the anonymous incarnations of avatars. So, the compositions of the individual ought to be combined with collective compo- sitions as a response to the magnitude of the era. “Each poet who travels under the umbrella of rheto- ric forges a narrow path like a lonely planet. That path will lead to a dead-end in a few years. Poetry cannot be a narrow path for one; it should be a large thoroughfare for thousands and thousands of travel- ers, and it should even have room for more. It should lead to infinity, not to a dead-end. (Khế Iêm, Stepping Out, Tan Hinh Thuc Publishing Club, 2012) The bilingual poetry and the new formalism in “Other Po- etry” (published in 2011) and free verse in “Traces of My Homeland” were both written in the United States and were created by a chance of history. If there had been no April 30, 1975, I would never have been in this country. I express my sincere gratitude to English language editor Carol J. Compton, translator DoVinh, and poet Tom Rior- dan, who are in sympathy with me in this poetic journey. |
ĐỌC TRÊN ISSUU
TRACES OF MY HOMELAND
Khế Iêm
Poems
Translator: Do Vinh
Editor: Carol J. Compton
Tan Hinh Thuc Publishing Club
2013
P. O. Box 1745
Garden Grove, CA 92842
World Wide Web Site
http://www.thotanhinhthuc.org
©2014 by Khế Iêm
All rights reserved
Printed in The United States of America
Library of Congress Control Number:
2013947386
ISBN 978-0-9885096-3-4
CONTENTS
Introduction To Traces Of My Homeland 15
Tom Riordan 21
Author’s Notes 22
Part 1: Structure
Níu lại | Lingering 25
Nhau qua | Crossing 26
Cà phê | Coffee 27
Chợ trời | Open-Air Market 28
Ngẫm ra | Reflecting 29
Đêm | Night 30
Dấu quê | Vestiges Of My Homeland 31
Giận | Anger 32
Hoa thị | The Persimmon Flower 33
Lộng ngôn | Exaggeration 34
Biển xanh | The Blue Ocean 35
Ngày | A Day 36
Trầm mình | Immersing Self 38
Với gió | Against The Wind 39
Co duỗi | Shrink And Stretch 40
Khẽ gọi | Calling Softly 41
Ngọn nguồn | The Source 42
Dấu vết | Traces 43
Rơi ra | Falling Apart 44
Bình minh | Dawn 45
Quay gót | Turn On One’s Heel 46
Nheo | Squinting 47
Hí kịch | Comedy 48
Muôn thú | Wild Animals 49
Phiền Muộn | Sadness 50
Lời | Words 51
Buông quanh | Pacing 52
Cánh sầu | Wings Of Sorrow 53
Cấm | Forbidden 54
Cỏ ngàn | Fields Of Grass 55
Quay | Turn 56
Chống gậy | Leaning On A Cane 57
Câm | Mute 58
Chấm phá | A Sketch 59
Quát tháo | Shouting 60
Máng rơm | Manger 61
Tìm kiếm | Search On 62
Phiêu lãng | Wandering 63
Han rỉ | Rusty 64
Vô lý |Unreasonable 65
Ngàn chim | Thousands Of Birds 66
Mai kia | Someday 67
Bến lữ | Traveler’s Port 68
Kịch một giây | A Play In One Second 69
Thiếu phụ | Young Woman 70
Chiều | Evening 71
Nghẹn | Choke 72
Đá | Glancing 73
Cội nguồn | Origin 74
Trong cõi | On The Horizon 75
Dặn | Direction 76
Hỏi | Ask 77
Kiếm sống | Making A Living 78
Part 2: Traces Of My Homeland
Bến sương | Misty Port 81
Nghi hoặc | Doubt 82
Chốn khác | Another Place 83
Khoảng khắc | A Moment 84
Giả tảng | Pretend 85
Ấm ớ | Stammering 86
Gửi người đồng hành | To Those Who Made The Journey 87
Part 3: Ngục Biếc | The Bluish-Green Prison 91
Biography 99
Front cover: Painting by Nguyễn Đại Giang
Bìa: Tranh Nguyễn Đại Giang
<
p style=”text-align: center;”>