Frederick Turner

Lời dẫn: Chủ nghĩa Hiện đại (Modernism) là từ dùng để chỉ trào lưu tư tưởng và nghệ thuật chủ lưu ở phương Tây cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20 (khoảng 1890 – 1930). Nó tiếp nối thời kì Ánh sáng của thế kỉ 18 và cuộc cách mạng Pháp 1789. Nó chủ trương chối bỏ truyền thống, chối bỏ hiện thực để thăm dò tiềm thức. Nó đi sau chủ nghĩa Tự nhiên (Naturalism) và bao gồm các khuynh hướng Tượng trưng, Ấn tượng và Suy đồi của thế kỉ 19 cùng các chủ nghĩa Dã thú, Lập thể, Hậu ấn tượng, Tương lai, Kiến tạo, Hình tượng cho tới Thế chiến 1 cũng như các chủ nghĩa Biểu hiện, Đađa và siêu thực sau Thế chiến 1. Đặc trưng của nó là một số tương đồng trong phong cách, dù có những dị biệt về lí thuyết. Đó là: âm nhạc vô chủ âm, hội hoạ trừu tượng và phản biểu hiện, thơ tự do, tiểu thuyết phiến đoạn và diễn tả dòng tâm thức, kiến trúc chức năng chủ nghĩa. Những nét tiêu biểu là việc sử dụng những hình thức không gian hoặc cắt dán đối lại với những hình thức tuyến tính và biểu hiện.

Sau Thế chiến 2, với Tế thiêu (Holocaust), xã hội hậu kĩ nghệ và sự toàn cầu hoá về văn hoá, chủ nghĩa Hậu hiện đại (Post modernism) vừa tiếp nối vừa muốn thay thế chủ nghĩa Hiện đại trong sự nổi dậy chống trật tự, biểu hiện, chuyện kể, hệ thống, í nghĩa. Nó có khuynh hướng về chiết trung, châm biếm, diễu cợt, tham chiếu, tự quy chiếu và tính bất định. Những trào lưu tư tưởng nền tảng của Hậu hiện đại là cấu trúc luận (structuralism), giải kết (deconstruction), và chủ nghĩa nữ quyền (feminism) nở rộ đặc biệt từ năm 1968 với phong trào thanh niên sinh viên phản đối chiến tranh tại Việt nam khắp thế giới.

Sau sự sụp đổ của hệ thống Sôviết tại châu Âu, từ đầu thập niên 1990 đã có những vận động của trí thức và nghệ sĩ phương Tây trong chủ nghĩa kinh điển và của những trí thức thuộc Thế giới thứ Ba trong chủ nghĩa Hậu thuộc địa kết hợp với các phong trào nữ quyền, nhân quyền, sinh thái để bảo vệ những giá trị của con người, phái tính, dân tộc, tự nhiên, khắp thế giới và suốt các truyền thống của lịch sử. Chủ chốt trong những vận động này là sự tôn trọng các giá trị tâm linh và nhân bản vĩnh hằng như chân, thiện, mĩ, và đề ra sự phục hoạt cho cả loài người sau năm thế kỉ thống trị của phương Tây.

Frederick Turner là một trong những đại biểu kiệt xuất của những vận động này.

Frederick Turner (sinh năm 1943 –) là giáo sư tước hiệu Những Sáng lập viên về Nghệ thuật và Nhân văn thuộc viện Đại học Texas ở Dallas, Hoa kì. Cho đến khi viết Tuyên ngôn năm 1995, ông đã là tác giả của 16 cuốn sách gồm cả thơ, phê bình và tiểu thuyết, trong đó có thể kể:

1985: Natural Classicism: Essays on Literature and Science (Chủ nghĩa Kinh điển Tự nhiên: Những Luận văn về Văn học và Khoa học)

1988 Genesis: an Epic Poem (Sáng thế kí: một sử thi)

1991: The New World: an Epic Poem (Thế giới Mới: một sử thi)

1991: The Rebirth of Value: Meditations on Beauty, Ecology, Religion and Education (Sự Tái sinh của Giá trị: Trầm tư về cái Đẹp, Sinh thái, Tông giáo, và Giáo dục)

1991: Beauty: the Value of Values (Cái đẹp: Giá trị của các Giá trị)

1991: Tempest, Flute, and Oz: Essays on the Future (Bão tố, Ống tiêu và Xứ Oz: Những Luận văn về Tương lai).

Từ 1995 tới nay ông chuyên tâm vào việc sáng tác thơ thuộc loại sử thi, đồng thời cũng dịch thơ Hungary qua các tác giả như Miklós Radnóti và Attila Jozsef. Ông lập gia đình năm 1966 với Chang Mei-lin (một phụ nữ gốc Hoa chủ trương một tạp chí văn học định kì) và có hai người con trai.

CHỦ NGHĨA KINH ĐIỂN MỚI VÀ VĂN HOÁ

(bài nói chuyện tại cuộc họp vùng Cleveland, Hội xã Philadelphia ngày 21.9.2002)

Charles Jencks, nhà phê bình hậu hiện đại, gần đây mở đầu một bài viết bằng mấy từ “Cái đẹp trở lại”. Đó là một nhận xét muộn màng, nhưng trễ còn hơn chẳng bao giờ. Có một luồng gió mát thổi suốt các nghệ thuật. Nó xảy ra trên khắp trái đất và ở cả trăm ngõ ngách khác nhau của nghệ thuật và văn hoá. Luận văn này chính iếu sẽ xét đến các trường hợp ở Hoa kì và vài trường hợp ở châu Âu, nhưng với mạng lưới quốc tế Internet, một thành tố mới có í nghĩa đã nhập cuộc, và trong khi thời Phục hưng có lẽ phải mất 300 năm để phổ biến khắp châu Âu và Phong trào Lãng mạn cả trăm năm mới phổ biến khắp phương Tây, bây giờ chỉ cần một hai chục năm là toàn thế giới bừng tỉnh trước sự thay đổi đang xảy ra ở khí hậu văn hoá.

Điều làm cho phong trào này mang tính cách mạng chính là vì nó là một cuộc phản cách mạng, là một cuộc cách mạng chống lại cái xấu và sự hỗn mang về đạo đức – và sự ngu ngốc trí tuệ tội nghiệp – của cảnh tượng nghệ thuật đương đại. Bây giờ ai cũng biết về những đầu người bị cưa nát và phân voi và cơ quan sinh dục và việc tự cắt xẻo của phe cánh nổi giận trong nghệ thuật đương đại – đó là những Mapplethorpe, những Serrano, những Damien Hirst, những Karen Findley, những Annie Sprinkle. Chúng ta cũng biết đến những tấm bố trống trơn, những áo quần bó được thả xuống từ những chiếc dương cầm, những “thiết trí” (installations), những vung vãi từ ngữ vô nghĩa và những quần đảo gulag kiến trúc xếp hộp của phe cánh ngu ngốc trong nghệ thuật đương đại: đó là những John Cage, những John Ashberry, những Jeff Koons, những Mies van der Rohe, những Andy Warhol. Nhưng đằng sau sự giận dữ kia và sự châm biếm sa đà kia là một chủ đích – không gì khác hơn là sự giật sập văn minh phương Tây. Đây là đường lối của đảng, và hoạ sĩ sẽ không có được tranh treo ở phòng triển lãm, thi sĩ sẽ không được xuất bản, kiến trúc sư sẽ không được uỷ nhiệm, và nhà soạn nhạc sẽ không được trình diễn nếu vi phạm đường lối này. Í đồ là thay thế sự hỗ trợ mà nghệ sĩ có được từ giai cấp trung lưu “tự mãn” bằng sự hỗ trợ của nhà nước, qua sự ban cấp và bảo trợ dựa vào tiền thuế, và với mục tiêu đó một thứ quan liêu về nghệ thuật của chính phủ được tạo ra, đẫm màu í hệ tiền vệ (avant-garde ideology), để dòng luân lưu tiền bạc trong trật tự được chắc ăn. Sự nổi loạn ắt được định chế hoá – tất có một cuộc cách mạng văn hoá liên tục, điều này hẳn làm cho thế giới an toàn cho mọi chuyện – phiêu lưu tính dục, đố kị người giàu, bạo động, chủ nghĩa hưởng lạc tự huỷ, hành vi nhân thân và công cộng bất lương, làm dáng trí thức, và lên mặt đạo đức – những điều mà trước kia người ta có thói quen phải lấy làm xấu hổ. Một khi những cấu trúc đạo đức, trí tuệ, mĩ học của xã hội công dân bị sụp đổ thì sẽ mở lối cho việc thiết lập một cơ chế quan liêu về văn hoá của nhà nước vô luân, mà mọi thành viên của nó sinh hoạt được bảo đảm.

Điều duy nhất mà người ta không được phép nổi dậy chống lại trong cái chính thống Hiện đại và Hậu hiện đại ấy là chính cái truyền thống nổi dậy, cái quy tắc căn bản là bất cứ làm nghệ thuật nào người ta cũng phải giúp sức giật sập cái xã hội thị trường trưởng giả/tư sản là cái thứ hỗ trợ cho các nghệ thuật. Vai trò anh hùng của người nghệ sĩ là lăng nhục lũ khờ đáng thương đi xem triển lãm tranh, đọc thơ và dự hoà nhạc. Và chủ nghĩa kinh điển mới đã quyết tâm vi phạm Nghị quyết số Một này. Những cuộc tấn kích khủng bố 11 tháng 9 đã mang lại cho cả chúng ta một nhận thức rằng nghệ thuật í niệm (conceptual art) “t.h.ơ n.g.ô.n n.g.ữ” (l.a.n.g.u.a.g.e p.o.e.t.r.y) không thể hiểu nổi, nghệ thuật trình diễn tiền vệ, tiểu thuyết không cốt truyện, âm nhạc không giai điệu, và kiến trúc hậu hiện đại phi nhân sẽ không có thể đương đầu với thực tại của thế giới. Chỉ trong những truyền thống nghệ thuật lớn của loài người chúng ta mới tìm ra được những phương tiện biểu hiện đầy đủ. Phong trào mới trong các ngành nghệ thuật, như thể đã dự tri nhu cầu này, đã dồn sức phục hồi những truyền thống ấy.

Ai là những người theo chủ nghĩa kinh điển mới? Một bộ tộc dị kì gồm những đầu óc độc lập, thường vui vẻ bất đồng í kiến với nhau, không có thẻ hội viên và đôi khi có thanh danh lớn mà họ cung hiến không dè dặt. Như tạp chí Độc giả Utne (The Utne Reader) một tạp chí tiền vệ hàng đầu đã phát biểu một cách chua chát, đang có “một sự phục hoạt kinh điển nó đe doạ chôn vùi lớp tiền vệ”.

Để hiểu chủ nghĩa kinh điển mới thi thố những gì, trước tiên chúng ta phải nhận rõ những đường nét đại cương chính về những gì đã xảy ra cho các ngành nghệ thuật trong thế kỉ 20, qua một trăm năm của chủ nghĩa hiện đại và theo sau là tái bút của nó, tức chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong thơ, sự gieo vần và niêm luật bị loại trừ, cũng như sức mạnh của kể truyện và ngay cả cấu trúc lập luận và luận lí. Ngay cả trong tiểu thuyết, cốt truyện bị giáng cấp xuống hàng giải trí bình dân, và “tiểu thuyết không cốt truyện” của Alain Robbe-Grillet và William Burroughs đã có một thời oanh liệt. Trong hội hoạ và điêu khắc, bất cứ dẫn chiếu nào tới hình tượng con người thực sự và phong cảnh thực sự thường bị gạt bỏ cùng với những kĩ thuật truyền thống về hình hoạ, phối cảnh, vân vân vốn khả dĩ tạo ra sự mô phỏng kì diệu giữa thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài. Trong âm nhạc, giai điệu và chủ âm trở thành lỗi thời và dãy 12 cung cùng vô chủ âm thống trị việc soạn nhạc “nghiêm túc”. Trong kịch nghệ, Bertolt Brecht bảo các nhà soạn kịch hãy tránh các thủ pháp diễn xuất tầm tầm cổ lỗ sĩ, những quy ước của hài kịch và bi kịch cho phép quan chúng (audience) nhận ra và đồng hoá với một nhân vật những nhà soạn kịch nhằm vào “hiệu ứng dị hoá” (alienation effect) và tấn công quan chúng trong kịch nghệ ác độc (the theater of cruelty). Trong kiến trúc, như Tom Wolfe đã vạch ra, trường phái Bauhaus hướng vọng tới một loạt xây dựng mang tính chức năng cho máy móc chứ không phải cho con người, trong mọi ngành nghệ thuật đều có một sự khước từ về đạo đức siêu thoát, một sự hiềm khích đối với bất cứ dẫn chiếu nào về một thế giới tâm linh, một sự bôi nhọ giận dữ về lịch sử Hoa kì và châu Au, cùng một sự miệt thị đối với những giá trị châu Âu kinh điển.

Những nghệ sĩ Kinh điển mới í thức rằng khẩu hiệu hiện đại chủ nghĩa của Ezra Pound “làm cho mới” (make it new) đã dẫn tới một cuộc chạy đua vũ khí về nghệ thuật trong đó mỗi sự tân kì kích động mới chỉ có thể tưng bật lên lớp xà bần của một nền văn hoá đã tan hoang; điều duy nhất mới còn lại làm được, dĩ nhiên là điều tốt lành xưa thôi. Những người kinh điển mới đang nhằm phục hồi lạc thú của các ngành nghệ thuật.

Một cách để định nghĩa phong trào mới là trong quy cách của một sự trở về những hình thức, loại hình, và kĩ thuật truyền thống trong nghệ thuật. Trong âm nhạc “nghiêm túc” có một sự phục hồi các cội rễ sâu xa của toàn loài người về giai điệu, một quan tâm đổi mới về dân nhạc (nhạc dân tộc) khắp thế giới, một chú tâm vào tính trực cập của trình diễn, ngẫu hứng và khung cảnh của quan chúng và người trình diễn, và một sự tỉnh mộng đối với những lí thuyết của Schoenberg về âm nhạc tiếp chuỗi (seriality) và dãy 12 cung đối với thuyết vô chủ âm của Stockhausen và những người tiếp nối. Trong kiến trúc và thiết kế phong cảnh có một sự chú í đổi mới và những ngôn ngữ kinh điển về xây dựng trang trí xứng hợp với cảnh quan và tỉ lệ nhân văn.

Trong các nghệ thuật thị giác có một sự quay về với biểu hiện, với phong cảnh và hình tượng, một sự từ chối quyền uy của chủ nghĩa hiện đại về sự trừu tượng hoá, và một sự xa lánh khỏi í tưởng rằng nghệ thuật là kẻ thù í hệ của đời thường con người. Trong thơ có một làn sóng quan tâm đổi mới vào niêm luật, gieo vần, và kể chuyện trong sáng, một sự tra hỏi về vai trò của thơ như một phát biểu riêng tư mang tính điều trị, và một sự quay về với những chủ đề công cộng lớn có tầm lợi ích bền lâu của con người. Trong kịch nghệ, có một sự đổi mới về khả năng của quan chúng quan hoài về số phận của các nhân vật. Trong tiểu thuyết đã có một đổi hướng về chuyện kể và “tiểu thuyết đạo đức”, các nhân vật nhận chân được cùng cốt chuyện cùng chủ đề cùng khung cảnh.

Trong hội hoạ và điêu khắc nghệ thuật mới được mệnh danh là chủ nghĩa hiện thực thấu thị (visionary realism). Nghệ thuật mới không đưa việc biểu hiện thực tại thô nhám một cách chính xác lên thành ngẫu tượng mặc dù nhiều phong cảnh, chân dung, và tĩnh vật của nó vẫn đầy đủ chi tiết một cách tuyệt vời. Chủ nghĩa hiện thực này đúng ra là một sự mở phơi những í nghĩa tâm lí, tâm linh và văn hoá nồng cháy dưới bề mặt của thế giới. Một từ trung tâm gắn bó với phong trào mới này là “chủ nghĩa kinh điển” (classicism). Nhưng phong trào này không chỉ đơn thuần là một sự quay về với những í tưởng cổ xưa của châu Au. Nó đã học được từ những bước tiến phi thường trong các khoa học xảy ra vài trăm năm năm nay, nó thừa nhận rằng chủ nghĩa kinh điển không phải là một sở hữu chuyên biệt của châu Âu mà là một phép lạ đã từng xảy ra nhiều lần khắp thế giới trong những xã hội muôn vẻ. Những chủ nghĩa kinh điển xưa đã đề ra những lí tưởng cố định và hoàn hảo chẳng bao giờ thay đổi; chủ nghĩa kinh điển mới nhìn thế giới như đang diễn tiến và một hoà nhập ngày càng phong phú hơn trong một phức thể vật lí và tâm linh. Tôi đã đề nghị danh xưng “chủ nghĩa kinh điển tự nhiên” (natural classicism) cho phong trào như một chỉnh thể; khả năng của chúng ta để tạo tác và kinh nghiệm cái đẹp là một phần của tự tính chúng ta, cái đẹp là một tính sở hữu đích thực của vũ trụ, và khả năng của chúng ta cảm nhận và sáng tạo cái đẹp dựa trên những chức năng có thể xác nhận được của bộ óc – chúng cũng mang tính đại đồng như thể ngôn ngữ của con người. Như vậy cái đẹp không phải chỉ thuần là một quy ước mà cái đẹp là một khả năng và một nhu cầu căn bản của con người.

Ngay những nhà phê bình nghệ thuật hậu hiện đại như David Hickey và Peter Schjeldahl cũng đã bắt đầu ngợi ca cái đẹp, và từ này đã trở lại trong những phim như American Beauty và Stealing Beauty. Những nhà phê bình hợhợđợ [hậu hiện đại gọi tắt là pomo trong tiếng Anh tức postmodernism] và những nhà làm phim dùng từ cái đẹp theo nghĩa nào thì chưa rõ lắm – hay nhất họ có thể đưa tới là “hưởng thụ”, một thứ xuất tinh trong đầu về sự phá huỷ một quy ước hoặc một kì vọng nào đó của quá khứ – tuy nhiên điều có í nghĩa là họ đã thấy nhu cầu phải kết nạp ngay từ “cái đẹp” này.

Trong thơ có hai phong trào tràn trề sinh lực và ít nhất cũng đại diện một phần cho điển mẫu (paradigm) mới. Những phong trào này được biết dưới tên “tân tự sự” (the new narrative) và “tân hình thức” (the new formalism) – là những danh xưng do những kẻ thù nghịch đặt cho, như thường xảy ra trong quá khứ. Phong trào “tân tự sự” nghe tên là rõ nghĩa: dòng thơ mới này phá vỡ những quy luật thiết lập từ thời Edgar Allan Poe vốn kết án bài thơ tự sự dài và dòng thơ này dám kể chuyện – thường khi cuốn hút và mê li – bằng văn vần. Phong trào “tân hình thức” dẫn chiếu về sự phục hoạt của niêm luật, văn vần, và vần điệu còn đang tiếp diễn trong thơ. Những nhà phê bình hiện đại chủ nghĩa đối với phong trào tân hình thức đã gợi í rằng thơ vần luật mang tính cách của lớp người ưu tú, nhưng họ bị chưng hửng khi người phúc đáp trả lời lại rằng chính thơ tự do (free verse) mới hạn hẹp vào một thiểu số hàn lâm sành sỏi, trong khi niêm luật và vần điệu là những hình thức thông thường cho cả lời các ca khúc blues và jazz, các ca khúc đồng quê và cao bồi viễn tây (country and western), những bài hát của Cole Porter, nhạc rap, và các ca kịch ở Broadway.

Một vài nhà thơ thực hành cả vần luật và tự sự, và hai phong trào này thường được gộp thành “thơ rộng mở” (expansive poetry), là một từ do nhà thơ Wade Newman sáng chế. Thơ rộng mở là rộng mở theo cái nghĩa là cố gắng mở rộng phạm vi của thơ vượt quá bài thơ trữ tình ngắn, không vần, theo chủ nghĩa ảnh tượng (imagism), riêng tư, theo chủ nghĩa hiện sinh – vốn đã trở thành khuôn thước trong văn chương cuối thời chủ nghĩa hiện đại. Dòng thơ này cũng rộng mở theo cái nghĩa là nó cảm thấy tự do phục hồi những điệu thức và loại hình quá khứ của thơ, và dự tưởng một vũ trụ rộng mở và không giới hạn tiền định, trong đó những hình thức mới của trật tự có thể nẩy nở từ những hình thức xưa và nơi đó tự do có thể bao gồm không chỉ việc huỷ hoại các loại trật tự truyền thống, mà còn cả việc sáng tạo những “loại trật tự mới”.

Bởi phong trào này không chỉ đơn thuần là phản động, cũng chẳng phải là một nhãn hiệu của “hậu hiện đại”. Như thời Phục hưng đã dạy chúng ta, và chúng ta đã quên mất, cái truyền thống đích thực (the truly traditional) và cái nguyên sơ độc sáng đích thực (the truly original) không phải là đối nghịch mà là điều kiện tiên quyết của nhau. Phong trào này đi song hành với những phát triển trong các ngành khoa học tự nhiên và nhân văn, đặc biệt trong những mô hình mới về não bộ và tâm trí, và trong lí thuyết về hỗn mang – tức khoa học về những tiến trình động lực học phi tuyến tính và những tụ điểm hấp dẫn dị kì của chúng. Có một liên quan giữa phong trào mới này và những thay đổi sâu xa về chính trị trên cảnh tượng quốc tế, cùng với sự tái suy nghĩ lớn lao đương đại về kinh tế học và triết học xã hội. Đã có một sự chuyển hoá trong vận động về môi sinh và quan điểm của chúng ta về tự nhiên, nó đã thay thế cho cách lưỡng đoan tiền vệ mang tính chủ nghĩa thuần tuý, vốn chủ trương hoặc hoang dã hoặc phong cảnh đô thị điêu tàn, bằng í tưởng về vườn cây và vùng quê vun xới sum suê – một sự chuyển hoán kết nối sâu xa với những phát triển trong các ngành nghệ thuật.

Phong trào này hiện còn là một thành phần thiểu số trong các sơ sở nghệ thuật, và còn chịu nhiều mức độ kiểm duyệt chính thức, phi chính thức, hoặc thầm lén của giới hàn lâm, những quỹ trợ cấp công cộng hoặc tư nhân, và một số viện bảo tàng, nhà xuất bản, tạp chí phê bình, phòng triển lãm, vân vân. Tuy nhiên trong thi ca, phong trào mới này hiện đã được thừa nhận suốt khắp giới hàn lâm, và các lớp dạy viết văn trong các trường đại học và cao đẳng đã khởi sự dạy lại những kĩ thuật gieo vần và niêm luật. Một số tạp chí mới, chẳng hạn như The Edge City Review (Tạp chí Biên Thành), tạp chí Light (Ánh sáng) và tạp chí Pivot (Trục) cùng với một sự nở rộ những tạp chí trên mạng như Expansive Poetry and Music (Thơ và Nhạc Rộng mở) đang phục vụ cho thị hiếu văn học mới này.

The Derriere Guard (Hậu vệ), là một nhóm nghệ sĩ mang cái tên hóm hỉnh do người sáng lập đặt ra, tức nhà soạn nhạc Stefania de Kenessey. Đây là một trong những đại diện kiệt xuất của toàn thể phong trào, hội tụ những phát triển song song trong kiến trúc, âm nhạc, điêu khắc, thi ca, quy hoạch đô thị trong một phản công hỗn hào và vô tư trước đám tiền vệ. Nhóm Hậu vệ đã dàn dựng một số những sự kiện nghệ thuật lớn ở New York, Chicago, và San Francisco, và vào những ngày 7 và 8 tháng 12 năm 2001 đã khởi phát chuỗi đầu trong một loạt những chuỗi khách sảnh tại tổng đàn của nhóm ở cánh tây thượng vùng Manhattan.

The American Arts Quarterly (Quý san Nghệ thuật Hoa kì) không chỉ là một tiếng nói có tầm vóc ở châu Mĩ về chủ nghĩa kinh điển mới trong các nghệ thuật thị giác, mà còn là một nơi hội ngộ quan trọng cho lí thuyết kinh điển mới suốt qua các ngành nghệ thuật khác nữa. Hàng chục các khuôn mặt mới sinh động của các hoạ sĩ trẻ, là những kẻ tị nạn khỏi những hành lang u ám của những trường nghệ thuật chủ trương Chính trị Phải đạo (Politically Correct), tấp nập về xưởng vẽ của Jacob Collins ở New York. Trạm trên lưới The Art Renewal [Đổi mới Nghệ thuật] website (http://www.artrenewal.org) mỗi tháng có hàng ngàn lượt truy cập. Nhà giao hưởng Bass tuyệt đẹp ở Fort Worth, những đô thị Celebration and Seaside (Khánh tiết và Bờ biển) ở Florida, và làng Poundbury của thái tử Charles [ở Anh], cùng với nhiều dự án mới trong những đô thị và những viện đại học, là thí dụ minh chứng cho phong trào đô thị mới (New Urbanism) trong kiến trúc và quy hoạch. Robert Stern, kiến trúc sư thuộc chủ nghĩa tân truyền thống, hiện nhận được nhiều uỷ nhiệm lớn.

Sự xuất hiện của New Klassical, gồm trạm trên mạng, tổng dẫn, và nhóm nghệ thuật đa phương (multimedia arts) vừa sinh thành là một cột mốc đáng kể trong sự hiện xuất của phong trào. Khi kết tụ được í tưởng, con người, nghệ phẩm từ mọi ngành nghệ thuật và trong một khuôn khổ quốc tế một cách rốt ráo, nó đánh dấu sự trưởng thành của phong trào. Điều thiết iếu là hiện nay đã có một quán càphê tân kinh điển cho toàn cầu, nơi đó các hoạ sĩ đủ loại có thể tìm ra nhau, nhìn ngắm tác phẩm của nhau, tranh luận, hợp tác, và chuẩn bị triển lãm, hội thảo, và trình diễn. Và, có lẽ còn quan trọng hơn đã có một chỗ cho công chúng có thể tới để tìm những gì là tinh hoa nhất trong các tác phẩm mới, học hỏi về và đóng góp vào các í tưởng mới.

Sức thúc đẩy cho toàn phong trào là nỗi mong muốn quay về với lí tưởng của cái đẹp. James Cooper, chủ bút Tạp chí Nghệ thuật Hoa kì, là một trong những tạp chí dẫn đạo của phong trào, đã nói: “Cái đẹp không chỉ là một khía cạnh được lựa chọn của nghệ thuật: nó là đối tượng và í hướng của nghệ thuật”. Với những người tân kinh điển, cái đẹp không thể tách rời cả với cái đẹp đạo đức hoặc khỏi cái mà Shelley gọi là cái đẹp trí tuệ. Thomas Aquinas, nhà thần học vĩ đại thời Trung cổ, đã tranh luận rằng đặc trưng nền tảng của thần tính là cái đẹp. Người ta chẳng cần theo lối thần học của ông cũng có thể tìm được cảm hứng trong í tưởng là cái đẹp có thể là cái chúng ta cần để kéo chúng ta ra khỏi nỗi tuyệt vọng của thế kỉ 20.

Trong một dịp tĩnh tâm cuối tuần tại căn nhà ở Blue Ridge của nhà điêu khắc Frederick Hart (là tác giả quần thể tượng Sáng tạo ở Nhà thờ lớn Washington, và tượng Ba người lính trong tượng đài Tưởng niệm Việt nam) một số trong những người sáng lập phong trào đã soạn thảo một bản tuyên ngôn như sau:

Chúng tôi chủ trương

1. Tái hợp của nghệ sĩ với công chúng

Nghệ thuật phải nên phát triển từ và nói với những cội rễ chung và những nguyên lí đại đồng của nhân tính trong mọi văn hoá.

Nghệ thuật phải nên tự hướng về công chúng.

Những thành viên nào trong công chúng mà không có thời giờ, huấn luyện, hoặc khuynh hướng về tay nghề và biểu hiện những hoài bão và trực cảm cao hơn, một cách phải lẽ đòi hỏi một giới ưu tú nghệ thuật phải là phát ngôn nhân và tấm gương có tính tiên tri của văn hoá.

Nghệ thuật phải nên chối từ những giản lược hoá của phe Tả và phe Hữu chính trị, và phải nên tinh luyện và đào sâu cái trung tâm cội rễ.

Việc sử dụng nghệ thuật, và việc ca tụng rởm, để tạo tự tôn là một sự phản bội điếm nhục mọi nền văn hoá của con người.

Sự kiệt xuất và những tiêu chuẩn là có thực và đại đồng trong những ngành nghệ thuật cũng như trong những môn thể thao tranh đua, dù cho chúng có thể phải nhiều thời gian hơn và phán đoán tinh tế hơn mới thẩm định được.

2. Tái hợp của cái đẹp và đạo đức

Chức năng của nghệ thuật là sáng tạo cái đẹp

Cái đẹp không toàn vẹn nếu không có cái đẹp về đạo đức.

Phải nên có một sự đổi mới về nền tảng đạo đức của nghệ thuật như một công cụ làm văn minh, cao quý, và hứng khởi.

Cái đẹp chân chính là điều kiện của xã hội văn minh.

Nghệ thuật thừa nhận cái bi đát và những tổn phí khủng khiếp của văn minh loài người, nhưng nó không từ bỏ hi vọng và niềm tin vào tiến trình văn minh hoá.

Nghệ thuật phải nên phục hồi mối liên kết với tông giáo và đức lí mà không trở thành kẻ tuyên truyền cho bất kể một hệ thống giáo điều nào.

Cái đẹp là đối nghịch của quyền lực chính trị cưỡng chế.

Nghệ thuật phải nên dẫn đạo nhưng không đi theo đạo đức chính trị.

Chúng ta phải nên phục hồi sự tôn kính đối với ân huệ và cái đẹp của con người và toàn bộ phần còn lại của cõi tự nhiên.

3. Tái hợp của nghệ thuật cấp cao với nghệ thuật cấp thấp

Những hình thức nghệ thuật đại chúng và thương mại là mảnh đất màu mỡ trong đó nghệ thuật cấp cao mọc lên.

Lí thuyết mô tả nghệ thuật; nghệ thuật không minh hoạ lí thuyết.

Nghệ thuật là cung cách một văn hoá chỉnh thể nói với tự thân.

Nghệ thuật là cung cách những nền văn hoá tương thông và kết hôn với nhau.

4. Tái hợp của nghệ thuật và tay nghề (thủ công/kĩ năng)

Một số những hình thức, loại hình, và kĩ thuật của nghệ thuật về mặt văn hoá mang tính đại đồng, tự nhiên, và kinh điển.

Những hình thức này là bẩm sinh nhưng đòi hỏi một truyền thống văn hoá để đánh thức chúng.

Chúng bao gồm những thứ như là biểu hiện thị giác, giai điệu, kể chuyện, thi luật, và mô phỏng kịch nghệ.

Những hình thức, loại hình, và kĩ thuật này không phải là những giới hạn hoặc gò bó, mà là những công cụ giải phóng và những hệ thống hồi dưỡng tạo sinh đến vô cùng (infinitely generative feedback systems).

Những tiêu chuẩn cao về tay nghề và làm chủ về công cụ phải nên được phục hồi.

5. Tái hợp của nhiệt tình và trí tuệ

Nghệ thuật phải nên đến từ và nói với những gì là chỉnh thể trong con người

Nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ tưởng tượng nhiệt tình, không phải của bệnh thái và tổn thất về tâm lí.

Mặc dù khi nó xử lí, như nó thường nên và phải, với cái kinh hoàng, cái bi đát và cái hoạt kê, nghệ thuật phải nên giúp cứu dưỡng những vết thương bên trong tự thân và những rạn nứt trong tương quan của tự thân với thế giới.

Những tượng trưng của nghệ thuật liên kết với hiện thân của con người trong một cảnh quan vật lí và xã hội.

6. Tái hợp của nghệ thuật với khoa học

Nghệ thuật khoáng trương cuộc tiến hoá sáng tạo của tự nhiên trên hành tinh này và trong vũ trụ.

Nghệ thuật là đồng minh, kẻ thông giải, và hướng dẫn viên tự nhiên của các khoa học.

Kinh nghiệm về sự thật là đẹp.

Nghệ thuật là thành tố còn thiếu trong chủ nghĩa bảo vệ môi trường.

Nghệ thuật có thể tái hợp với khoa học vật lí qua những í tưởng như là tiến hoá và lí thuyết về hỗn mang (chaos theory).

Tính phản chiếu của nghệ thuật có thể phần nào hiểu được qua việc nghiên cứu những hệ thống động lực phi tuyến tính (nonlinear dynamical systems) và những tụ điểm hấp dẫn dị kì (strange attractors) của chúng trong tự nhiên và toán học.

Loài người hiện xuất (emerge) từ những tương tác của cuộc tiến hoá sinh học và văn hoá.

Cho nên thân thể và bộ óc của chúng ta được thích nghi với và đòi hỏi sự trình diễn và sáng tạo nghệ thuật.

Chúng ta có một tự tính; tự tính đó có tính văn hoá; văn hoá đó có tính kinh điển.

Sự tiến hoá văn hoá một phần đã được thúc đẩy do cách chơi phát minh trong những ngành thủ công và trình diễn nghệ thuật.

Trật tự của vũ trụ vừa chẳng mang tính tất định vừa chẳng ở trên đường dẫn tới sự phân rã không thể đảo ngược; thay vào đó vũ trụ tự canh tân, tự điều hợp, không thể tiên đoán, mang tính sáng tạo, và tự do.

Cho nên con người chẳng cần hoài công khốn khổ chiếm đoạt của thế giới cái kho trữ ngày càng sút giảm về trật tự, và tranh đấu với nhau để sở hữu nó, rốt cục chỉ thấy đã tự cột mình vào một lối sống máy móc và tất định.

Thay vào đó họ có thể hợp tác với tiến trình nghệ thuật của chính tự nhiên và với nhau trong một trò chơi, tự do và không có giới hạn tiền định, về sự sáng tạo giá trị.

Nghệ thuật nhìn về tương lai với hi vọng là tìm kiếm một sự kết hợp mật thiết hơn với sự tiến bộ chân thực của kĩ thuật.

7. Tái hợp của quá khứ với tương lai

Nghệ thuật gợi lên cái quá khứ san sẻ của mọi con người, đó là nền tảng đạo đức của văn minh.

Đôi khi hiện tại sáng tạo ra tương lai bằng cách đập tan xiềng xích của quá khứ; nhưng đôi khi quá khứ sáng tạo ra tương lai bằng cách đập tan xiềng xích của hiện tại.

Thời kì Ánh sáng và chủ nghĩa Hiện đại là những thí dụ về trường hợp trước; thời kì Phục hưng, và có lẽ thời của chúng ta, là những thí dụ của trường hợp sau.

Không nghệ sĩ nào đã hoàn tất hành trình nghệ thuật của mình cho tới khi nghệ sĩ ấy đã lưu trú với và học hỏi được sự khôn ngoan của những nghệ sĩ quá cố từng đi trước.

Tương lai sẽ nhận thức rõ hơn về và mắc nợ với quá khứ nhiều hơn, chứ không phải ít hơn chúng ta; cũng như chúng ta nhận thức rõ hơn về và mắc nợ với quá khứ hơn tổ tiên chúng ta.

Sự bất tử của nghệ thuật đi theo cả hai chiều trong thời gian.

Trong ánh sáng của những nguyên lí này, chúng tôi đối đầu với suy tư đương đại và thôi thúc sự cải cách những định chế hiện tồn tại.

Nguyễn Tiến Văn dịch

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.