Baghdad Burning: Tales From an Iraq War Survivor
Điều cuối cùng Omar Alshujery nhớ khi nhìn thấy những quả bom đầu tiên của Mỹ rung chuyển Baghdad năm 2003 là một “ánh sáng khổng lồ”.
“Tôi nhìn thấy một ánh sáng khổng lồ”, Omar kể, “và tôi hét lên, ‘Núp đi!’ Sau đó, mặt đất rung chuyển”.
Alshujery, khi đó mới 12 tuổi, hét lên khi sức mạnh của vụ nổ đập mạnh cậu vào tường.
Vài giây sau, khi làn sóng bom tiếp theo hoành hành bên ngoài những bức tường thạch cao mỏng manh đang ôm Alshujery, cha mẹ và năm người anh em của cậu, điện đã mất, nhấn chìm ngôi nhà thời thơ ấu của Alshujery trong bóng tối – một bóng tối cuối cùng sẽ nuốt chửng ông nội và các chú của cậu.
Bất chấp các báo cáo, chiến tranh không phải là một điều đẹp đẽ. Nó không vô trùng cũng không đẹp. Nó phức tạp và quanh co; nó đẫm máu và hỗn loạn; chiến tranh là một con quái thú bẩn thỉu, hung dữ, có hàng ngàn răng, và nó ăn thịt cả người Iraq và người Mỹ.
Số người chết thay đổi. Vào thời điểm chiến tranh Iraq “kết thúc” vào ngày 18 tháng 12 năm 2011, hãng thông tấn Associated Press đã tính toán có 100.600 thương vong từ tháng 3 năm 2003 đến tháng 4 năm 2009, nhưng một báo cáo độc lập của Anh năm 2007 đưa ra con số đó gần 1,2 triệu chỉ riêng từ tháng 3 năm 2003 đến tháng 8 năm 2007. Cả hai con số đều không tính đến thương vong về tinh thần của những người sống sót như Alshujery – một người sống sót sau cuộc chiến giữa những kẻ thù mà cả hai đều tuyên bố gia đình anh là thương vong.
Trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược, Ashuljery đã chứng kiến Sư đoàn 3 của Quân đội Hoa Kỳ tràn vào các đường phố Baghdad, mặt đất rung chuyển dưới sức nặng của cuộc tấn công dữ dội.
“Chúng tôi nghe thấy tiếng máy bay F-16 và xe Humvee”, Alshujery nói. “Sau đó, các chú và ông tôi khóc vì họ biết đất nước chúng tôi đã bị phá hủy”.
Baghdad rơi vào hỗn loạn sau cuộc xâm lược. Đường phố ngổn ngang xác chết, và thành phố bốc mùi thịt thối rữa. Alshujery và 6 triệu cư dân khác của Baghdad đã gần bảy năm không có điện và nước sạch.
“Cuộc sống trước chiến tranh rất tốt”, Omar nói. “Nó rất yên bình. Chúng tôi có an ninh. Chúng tôi làm việc, kinh doanh và đi du lịch nước ngoài. Mọi thứ đều tốt đẹp”.
Sau cuộc xâm lược, tất cả đã thay đổi. Đất nước rơi vào hỗn loạn, và thường dân Iraq bị bắt trong cuộc đấu súng giữa quân đội Mỹ và quân đội Iraq, bọn trộm cắp và kẻ cướp, và các chiến binh kháng chiến Iraq – còn được gọi là “những kẻ khủng bố”.
Đột nhiên, Baghdad – “Món quà của Chúa” trong bản dịch – trở thành nơi nguy hiểm nhất trên trái đất, và mỗi ngày đều đầy rẫy những nỗi kinh hoàng mới đối với Omar và gia đình anh.
Năm 2005, quân đội Mỹ đã xông vào nhà họ vào giữa đêm và cố gắng cướp gia đình anh bằng súng. Khi Omar và người thân từ chối đưa tiền cho quân đội, quân đội Mỹ đã bắt giữ cha anh.
Một năm sau, khi Omar 16 tuổi, anh bị bắt cóc bằng súng lần thứ hai, lần này là bởi người Iraq.
Omar và chú của anh, Saeed, đang lái xe qua sa mạc gần Anbar, Iraq, thì những người đàn ông có vũ trang buộc xe của anh phải dừng lại. Sau khi bước ra khỏi xe, họ bị đánh đập, trói và ném vào cốp xe BMW màu xanh lá cây sẫm đời 1993 trong cái nóng 104 độ.
Sau khi lái xe gần nửa giờ, những tay súng dừng xe và lôi Omar và chú của anh ra khỏi cốp xe. Một trong những tay súng chĩa súng lục vào đầu Omar và ra lệnh cho anh cúi đầu xuống và nhìn chằm chằm xuống đất.
“Lúc đó, tôi không sợ hãi gì cả”, Omar kể lại. “Tôi chỉ thấy toàn là sợ hãi. Tôi chấp nhận mọi chuyện như vậy và tôi nói, ‘Được rồi, tôi sẽ chết.’ Tôi không nhắm mắt lại. Tôi nghĩ, ‘Viên đạn có xuyên qua được không?’ Và, ‘liệu tôi có nhìn thấy máu của mình trước khi chết không?'”
Omar và gia đình cuối cùng đã chạy trốn đến Syria vào năm 2006 sau vụ bắt cóc và giết hại chú và ông của anh.
“Chúng tôi đã quá đủ rồi. Tôi đã chứng kiến những người đàn ông có vũ trang bắt cóc chú tôi là Salem và ông tôi là Taha đã mất tích hơn một năm”, Omar nói. “Sau khi phát hiện ra thi thể của Salam với hơn 30 lỗ đạn, cuối cùng chúng tôi đã tìm thấy nó. Chúng tôi đã vượt biên giới vào Syria vào đêm hôm đó”.
Anh đã sống ở Syria gần hai năm trước khi Tổ chức Di cư Quốc tế giúp Omar và gia đình anh chuyển đến Hoa Kỳ vào năm 2008.
“Chiến tranh đã cướp đi tất cả và không để lại cho chúng tôi bất kỳ thứ gì”, Omar nói. “Nó đã phá hủy nhà cửa, công việc kinh doanh và cuộc sống của chúng tôi”.
Mặc dù chiến tranh đã cướp đi tất cả những gì của Alshujery, chàng trai 22 tuổi này vẫn giữ được nhà. Ngày nay, Omar sống chung trong một căn hộ khiêm tốn ở Portland với mẹ, cha, năm anh trai và chị gái.
Anh đang theo học ngành kỹ thuật tại Cao đẳng Cộng đồng Portland, một tấm bằng mà anh mơ ước một ngày nào đó sẽ được sử dụng khi trở về nhà ở Iraq – sau chiến tranh và sự chiếm đóng – sau bạo lực và đổ máu, khi đất nước anh có thể xây dựng lại – từng viên gạch và từng cuộc sống.
“Tôi nhìn lại quá khứ, và tôi thấy nỗi đau và bóng tối”, Omar nói. “Cuộc đời tôi là một đêm với những vì sao và một ánh sáng dẫn lối tôi vượt qua bóng tối. Tôi đã mất những vì sao. Nhưng tôi có ánh sáng, và những vì sao ở trong tim tôi”.
The last thing Omar Alshujery remembers seeing when the first American bombs rocked Baghdad in 2003 was a “huge light.”
“I saw a huge light,” Omar says, “and I screamed, ‘Take cover!’ Then, the earth shook.”
Alshujery, then only 12, screamed as the force of the explosion slammed him against the wall.
Seconds later, as the next wave of bombs raged outside the thin plaster walls that cradled Alshujery, his parents, and his five brothers, the power went out, engulfing Alshujery’s childhood home in darkness-a darkness that would eventually swallow his grandfather and his uncles.
Despite the reports, war is not a pretty thing. It’s neither sterile nor photogenic. It’s complex and convoluted; it’s bloody and chaotic; war is a filthy, ravenous, thousand-toothed beast, and it feasted on Iraqi and American alike.
The death tolls vary. By the time the Iraq war “ended” on Dec. 18, 2011, the Associated Press calculated 100,600 casualties between March 2003 and April 2009, but an independent 2007 British report placed that number closer to 1.2 million between March 2003 and August 2007 alone. What neither figure accounts for are the casualties of soul suffered by survivors like Alshujery-a survivor of a war between enemies who both claimed his family as casualties.
During the first stages of the invasion, Ashuljery watched as the U.S. Army’s Third Division swarmed the streets of Baghdad, the ground trembling under the weight of the onslaught.
“We heard the F-16s and the Humvees,” Alshujery says. “Then my uncles and grandpa cried because they knew our country was gone-destroyed.”
Baghdad fell into chaos after the invasion. The streets were littered with dead bodies, and the city reeked of putrefied flesh. Alshujery and Baghdad’s 6 million other residents went nearly seven years without electricity and running water.
“Life was good before the war,” Omar says. “It was peaceful. We had security. We were working, doing business, and traveling outside the country. Everything was good.”
After the invasion, all of that changed. The country fell into chaos, and Iraqi civilians were caught in the crossfire of the Americans and Iraqi soldiers, the thieves and bandits, and the Iraqi resistance fighters-A.K.A. “the terrorists.”
Suddenly, Baghdad-“God’s Gift” in translation-was the most dangerous place on earth, and each day was fraught with new horrors for Omar and his family.
In 2005, American soldiers stormed their home in the middle of the night and attempted to rob his family at gunpoint. When Omar and his relatives refused to give the soldiers their money, the Americans arrested his father.
One year later, when Omar was 16, he was kidnapped at gunpoint for the second time, this time by Iraqis.
Omar and his uncle, Saeed, were driving through the desert near Anbar, Iraq, when armed men forced his vehicle to pull over. After stepping out of the car, they were beaten, bound and tossed into the trunk of a dark green 1993 BMW in 104-degree heat.
After driving for nearly half-an-hour, the gunmen stopped the car and dragged Omar and his uncle out of the trunk. One of the gunmen aimed a pistol at Omar’s head and commanded him to put his head down and stare at the ground.
“In that moment, I had no fear,” Omar says. “It was just zero. I accepted it as it is, and I said, ‘O.K., I’m going to die.’ I didn’t close my eyes. I was thinking, ‘Will the bullet go through or not?’ And, ‘will I see my blood before I die?'”
Omar and his family eventually fled to Syria in 2006 after the kidnapping and murder of his uncles and grandfather.
“We had enough. I watched as armed men kidnapped my uncle Salem and my grandfather Taha had been missing for more than a year,” Omar says. “After discovering Salam’s body with more than 30 bullet holes, we finally had it. We crossed the border into Syria that night.”
He lived in Syria for nearly two years before the International Organization of Migration helped Omar and his family relocate to the United States in 2008.
“The war took everything and left us with nothing, Omar says. “It destroyed our homes, our businesses and our lives.”
Despite all that the war took from Alshujery, the 22-year-old retains home. Today, Omar shares a modest Portland apartment with his mother, his father, his five brothers and his sister.
He’s studying engineering at Portland Community College, a degree he dreams of one day using by returning home to Iraq-after the war and the occupation-after the violence and the bloodshed, when his country can rebuilt-brick by brick and life by life.
“I look through the past, and I see pain and darkness,” Omar says. “My life was a night with stars and a light to guide me through the darkness. I lost the stars. But I have the light, and the stars are in my heart.”
Discover more from TIN THƠ
Subscribe to get the latest posts sent to your email.