Năm 708, Hoàng hậu Nguyên Minh (661–721) dời đô Nhật Bản đến Heijōkyō, ngày nay là Nara, mô phỏng theo Trường An, Trung Quốc. Việc di dời này kết thúc khoảng 1.300 năm trước, vào năm 710. Trường An và Heijōkyō, cả hai đều từng là kinh đô thịnh vượng của các triều đại, giờ đây chỉ còn là những công viên lịch sử. Nhà văn Li Kotomi kể lại ấn tượng của bà trong chuyến đi gần đây đến Nara.
Ngôi sao cực của cõi phàm trần
Đoàn tàu lắc lư và lạch cạch trên đường ray. Bên ngoài cửa sổ, cây cối điểm xuyết trên đồng bằng vàng thưa thớt. Một biển cỏ bạc Trung Quốc trắng xóa trải dài trên đồng bằng, và một cánh cổng đỏ chót kiểu Trung Quốc hiện ra trước mắt, rồi cũng nhanh chóng biến mất.
Đó là quang cảnh nhìn từ tàu hỏa trên tuyến Kintetsu Nara, giữa ga Yamato-Saidaiji và ga Shin-Ōmiya. Đoạn đường ray này gần như đi qua chính xác trung tâm của Heijōkyō, kinh đô thời kỳ Nara (710–794) của Nhật Bản. Cổng đỏ là công trình phục dựng lại cổng Suzakumon, cổng phía nam của cung điện.
Tôi đã đến thăm tàn tích Heijōkyō vào một ngày trời quang mây tạnh giữa tháng 11 năm 2020. Tôi đã đến Nara hai lần trước đó, nhưng chỉ chơi đùa với những chú hươu trong Công viên Nara. Tôi chưa bao giờ đến Heijōkyō.
Hôm tôi đến thăm trời nóng và rõ ràng không hề mang hơi thở mùa thu. Mặt trời trắng xóa khổng lồ nhô lên bầu trời xanh trong vắt, làm tan đi làn sương ẩm ướt từ vùng hoang dã khô cằn trải dài trước mắt tôi. Đồng cỏ trải dài tít tắp, và đứng đó, có phần cô đơn, là một tòa nhà nguy nga với những viên đá góc và cầu thang trắng muốt, những cột trụ son son, cùng mái ngói đen điểm xuyết những họa tiết vàng óng. Nếu không biết nơi đây từng là cung điện hoàng gia, hẳn bạn sẽ thấy nó thật lạc lõng.
Tàn tích của Cung điện Heijō, nay đã trở thành hoang mạc.
Các tòa nhà là một bản tái tạo của Daigokuden, là sảnh chính của Triều đình Hoàng gia và là tòa nhà trung tâm của thủ đô. Đây là nơi diễn ra các lễ kỷ niệm quan trọng của quốc gia, như lễ lên ngôi của hoàng đế, hoặc lễ kỷ niệm buổi sáng vào ngày đầu tiên của năm mới. Các ký tự được sử dụng trong tên Daigoku được chuyển thể từ các ký tự Trung Quốc cho thái cực , “sự hợp nhất tối cao tối thượng”. Thái cực mô tả trạng thái tồn tại trước khi vũ trụ khởi nguyên, khi âm và dương, thanh tịnh và ô uế, đều hòa trộn trong trạng thái hỗn loạn. Trong thần thoại nguồn gốc Trung Quốc, dương thanh tịnh bay lên trở thành thiên đường, trong khi âm ô uế chìm xuống trở thành đất, và đó là cách trời và đất phân chia.
Nói cách khác, Thái Cực là nguồn gốc của trời đất, của vạn vật. Nếu áp dụng tư duy này vào triết học chính trị, thì Thái Cực tương đương với sao Bắc Đẩu, trung tâm của vũ trụ. Nếu xét thêm rằng sao Bắc Đẩu là nơi ngự của Thiên Hoàng – vị vua tối cao của thiên giới – thì Thái Cực cũng là một tên gọi phù hợp cho vị vua của cõi trần. Ở Trung Quốc cổ đại, không có gì lạ khi cung điện chính của hoàng đế được gọi là Thái Cực Điện hay Thái Cực Cung. Khi đó, công trình này, Thái Cực Điện trong tiếng Trung, hay Đại Ngọ Điện trong tiếng Nhật, đã trở thành sao Bắc Đẩu của cõi trần.
Năm 708, Hoàng hậu Genmei ban hành Lệnh di dời đô đến Heijō, và việc di chuyển được hoàn thành hai năm sau đó. Đằng sau quyết định đó là mong muốn của hoàng hậu về việc cải cách Nhật Bản như một quốc gia được xây dựng trên một hệ thống pháp luật được mã hóa, bản thân hệ thống này dựa trên hệ thống của Trung Quốc, được gọi là ritsuryō , và để chứng minh thực tế đó cho các quốc gia khác. Việc ban hành và thực thi bộ luật Taihō ritsuryō vào năm 701 có nghĩa là Nhật Bản chính thức là một quốc gia có bộ luật hợp pháp. Khi hoàng đế cử một sứ thần đến Trung Quốc thời nhà Đường để thông báo về sự kiện đó, sứ thần trở về đã báo cáo rằng Trường An được bố trí hoàn toàn khác với kinh đô của Nhật Bản tại Fujiwara. Cung điện tại Trường An nằm ở rìa phía bắc, trong khi cung điện tại Fujiwarakyō gần như nằm ngay trung tâm thành phố.
Sự tôn kính đối với phương Bắc
Bố cục của Trường An có một nền tảng tư tưởng đúng đắn. Theo quan điểm truyền thống của người Trung Quốc về phương hướng và định hướng, hướng bắc được đặc biệt tôn kính. Như tôi đã đề cập, sao Bắc Cực được coi là quê hương của hoàng đế trên trời. Có một câu nói, kunshi nan mensu , hay “người vĩ đại hướng về phía nam”. Điều này ngụ ý rằng một người cai trị ngồi ở phía bắc và quay mặt về phía tất cả thần dân của mình ở phía nam. Ngược lại, thần dân của người cai trị được tìm thấy ở phía nam và phủ phục đối mặt với người cai trị ở phía bắc. Tôi cho rằng điều này có liên quan đến ánh sáng mặt trời. Các tòa nhà hướng về phía nam có xu hướng nhận được nhiều ánh sáng mặt trời và có thể ngăn chặn gió bắc lạnh. Vì “hướng nam” ngụ ý sự chiếu sáng của dương, nên việc làm như vậy mang lại điềm lành và cũng có thể ngụ ý tiếp cận với “ánh sáng của công lý” hoặc “giác ngộ”.
Ngoài ra, hoàng đế được coi là hiện thân của rồng ở dạng người. Rồng ưa nước, và theo thuyết ngũ hành , sự tương tác giữa năm yếu tố trong triết học Trung Hoa, nước ứng với hướng Bắc. Điều đó có nghĩa là hoàng đế nên ở hướng Bắc và hướng Nam. Trong văn hóa Trung Hoa, nhiều công trình vẫn được xây dựng hướng Nam. Nhân tiện, giữa Đông và Tây, hướng Đông được coi là tốt hơn hướng Tây, vì đó là nơi mặt trời mọc. Đây cũng là lý do tại sao thái tử được gọi ẩn dụ là Đông Cung , hay “cung điện phía Đông”.
Theo quan điểm hiện đại, chúng ta có thể nghĩ rằng tất cả những điều này chỉ là mê tín dị đoan, không đáng để quan tâm nhiều. Tuy nhiên, cũng giống như ở phương Tây thời kỳ tiền Khai sáng, khi thế giới quan tâm linh Cơ Đốc giáo chiếm ưu thế, Đông Á vào thời điểm đó cũng chịu ảnh hưởng của thế giới quan tâm linh. Vào thời điểm đó, con người muốn cai trị người khác thường cần dựa vào những lý giải vượt ra ngoài tầm thường. Ví dụ, ở Nhật Bản, quyền cai trị của hoàng đế được biện minh bằng cách xác định ông là “con trai của trời” và truy ngược dòng dõi của ông đến nữ thần Amaterasu. Trong một hệ thống như vậy, chúng ta không thể đơn giản bỏ qua những thứ như phong thủy hay vũ trụ học, bởi vì nếu chúng ta lờ đi những ý tưởng vượt ra ngoài kiến thức trần tục của con người, thì thực ra chúng ta đang chạm đến nền tảng của chính quyền.
Vũ trụ quan của Trung Quốc thời Đường, bao gồm cả quan điểm về phương hướng, cũng như quy hoạch đô thị, là tiên tiến nhất Đông Á thời bấy giờ. Việc Nhật Bản, một quốc gia tương đối thô sơ, muốn học hỏi theo cũng là điều dễ hiểu.
Điều đó cũng mang lại những lợi ích thiết thực. Việc sao chép bố cục của Trường An tại kinh đô của chính mình sẽ giúp Nhật Bản được công nhận là một quốc gia có chủ quyền, đồng thời ngăn chặn các cuộc tấn công từ bên ngoài. Nói cách khác, việc giành được sự công nhận quốc tế đó là vấn đề đảm bảo tương lai cho quốc gia. Khi một quốc gia phát triển cao có một nền văn hóa hoặc xu hướng tư tưởng tiên tiến, làm nền tảng ổn định cho chính quyền, đưa quốc gia đó lên vị thế nổi bật với những lợi ích như thịnh vượng kinh tế, thì việc các quốc gia khác tích cực noi theo là điều tự nhiên. Điều đó vẫn đúng cho đến ngày nay cũng như thời xưa. Những thứ như dân chủ, chủ nghĩa tư bản và Thế vận hội đều là những ví dụ hiện đại của cùng một ý tưởng.
Trường An thu nhỏ
Khi Nhật Bản dời đô về Heijō, tạo nên một ngôi sao chỉ đường mới cho đất nước, họ đã thành công trong việc tạo ra một phiên bản thu nhỏ của Trường An với Heijōkyō và cung điện Heijō. Nơi này, từng là ngọn hải đăng chỉ đường của đất nước, đã trở thành một thảo nguyên hoang vu trong 1.300 năm qua. Thậm chí không còn là một tàn tích. Chỉ là hoang vu. Có một công viên lịch sử, với những hàng cây được chăm sóc và những vỉa hè lát đá, nhưng không còn dấu hiệu nào của thời kỳ hoàng kim của thủ đô, của những cung điện tráng lệ chắc hẳn đã từng ở đây, hay cuộc sống của những cư dân cao quý. Tất cả đã bị nuốt chửng bởi đất, và thậm chí không còn dấu vết nào còn sót lại. Khi tôi đi bộ quanh vị trí trước đây của cung điện, nghĩ lại tất cả những câu chuyện có thể đã xảy ra ở đây từ rất lâu trước đây, một ký ức ùa về với tôi, giống như déjà vu.
Đó là ký ức về chuyến đi dạo quanh cung điện Đại Minh ở Tây An. Tây An xưa kia từng là Trường An. Kinh đô Trường An của nhà Đường là nơi tọa lạc của ba cung điện: Thái Cực, Đại Minh và Hưng Thanh. Đại Minh là cung điện lớn nhất. Với diện tích 3,11 km², đây là cung điện lớn thứ nhất hoặc thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, lớn hơn cả Hoàng cung hiện tại ở Nhật Bản, bao gồm cả khu vườn ngoài (2,3 km²), và lớn gấp bốn lần Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh (0,72 km²).
Vị trí trước đây của Cung điện Daming.
Ban đầu, Đại Minh chỉ được dự định làm cung điện mùa hè, trong khi Thái Cực Điện ở phía bắc Trường An là cung điện chính, nhưng Thái Cực Điện có một số vấn đề. Về cơ bản, khi Trường An được quy hoạch, các nhà quy hoạch đô thị đã buộc mọi thứ phải tuân theo vũ trụ quan đã thảo luận ở trên, vì vậy nó phải nằm ở phía bắc thành phố. Tuy nhiên, khu vực đó là vùng đất thấp, nên vào mùa hè, độ ẩm và độ ẩm rất cao. Đường Cao Tông (628–683) mắc bệnh kinh niên khiến môi trường cung điện Thái Cực trở nên không thể chịu đựng được, vì vậy vào năm 662, ông đã mở rộng và cải tạo Đại Minh để làm nơi ở mới của mình.
Phải mất công sức của hàng chục ngàn người và khoản đầu tư khổng lồ để xây dựng Đại Minh. Lương của tất cả các quan chức làm việc tại Trường An đã bị cắt giảm một tháng để giúp trang trải chi phí xây dựng. Cung điện được xây dựng, một trong những cung điện lớn nhất trong lịch sử, đã phát triển thịnh vượng như một trung tâm chính trị và văn hóa của nhà Đường trong hơn 230 năm. Nó là biểu tượng của Đế chế Đường, đế chế thịnh vượng nhất thế giới vào thế kỷ thứ bảy và thứ tám. Nó đã thu hút các sứ thần từ khắp châu Á, bao gồm cả Nhật Bản. Chính tại đây, Võ Tắc Thiên (624–705), nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc, đã lên ngôi, và là nơi Hoàng đế Đường Huyền Tông (685–762) và Dương Quý Phi (719–756) đã thề nguyện tình yêu của họ với nhau.
Mô hình cung điện Daming tỷ lệ 1/15 này mang đến cái nhìn thoáng qua về vinh quang trong quá khứ.
Những giấc mơ cổ xưa chôn vùi trong hoang dã
Một cuộc chiến tranh vào cuối triều đại nhà Đường đã khiến Cung điện Daming bị thiêu rụi và chỉ còn lại đống đổ nát. Thời tiết khắc nghiệt hàng ngàn năm đã biến nơi này thành nơi hoang dã, và trong một thời gian, tàn tích thành phố đã trở thành nơi trú ẩn cho những người dân thường nghèo khó. Cuối cùng, nơi này đã được trang bị thành một công viên lịch sử vào năm 2010, và các quan chức đã trồng cây, xây dựng lối đi lát đá và đặt các biển thông tin. Một số tòa nhà cũng được sao chép. Mặc dù vậy, vẫn không còn dấu vết nào của cung điện ban đầu. Những giấc mơ cổ xưa về quyền lực và xa hoa đã tạo nên hình dạng của nó bị chôn vùi trong lòng đất tối tăm bên dưới vùng hoang dã đó, chỉ tìm thấy hình dạng trong suy tư của du khách. Đi bộ quanh cả hai địa điểm, Heijōkyō và Trường An, mang lại cảm giác hoang vắng tương tự. Tôi thấy mình ước mình có thể tiếp cận với taimu beruto của Doraemon — một chiếc thắt lưng cho phép người đeo du hành xuyên thời gian và không gian.
Cảnh quan nhìn từ phía trước cổng Suzakumon của cung điện Heijō cũ.
Heijōkyō, được mô phỏng theo Trường An, thực sự đã nắm bắt được đặc điểm của nó. Các con phố được bố trí theo mô hình lưới được xây dựng xung quanh con đường chính của Suzakuōji chạy theo hướng bắc-nam, với cung điện ở trung tâm phía bắc của thành phố và cổng chính Suzakumon hướng về phía nam. Ngoài ra còn có hai khu chợ, phía đông và phía tây: Higashiichi và Nishiichi. Cả hai thành phố đều có một hồ nhỏ ở góc đông nam. Tuy nhiên, trong khi Trường An gần như là một hình chữ nhật hoàn hảo, Heijōkyō có một phần nhô ra lớn về phía đông bắc. Heijōkyō cũng bằng một nửa chiều dài và chiều rộng của Trường An, với khoảng một phần tư diện tích. Suzakuōji dẫn về phía nam từ cung điện ở Trường An rộng 150 mét, trong khi con đường tương tự ở Heijōkyō chỉ rộng khoảng 74 mét, gần như chỉ bằng một nửa bản gốc một lần nữa. Tôi nghe nói rằng Nhật Bản ngày nay có ba con đường rộng 100 mét, nhưng không có con đường nào rộng 150 mét. Thực ra, đại lộ trung tâm ở Trường An giống một quảng trường hơn là một con đường.
Tháp chuông nằm ở trung tâm phố cổ Tây An ngày nay. Tháp chuông đóng vai trò là điểm mốc định hướng.
Về các thủy vực ở phía đông nam mỗi thành, thủy vực ở Trường An được gọi là hồ Khúc Giang, trong khi thủy vực ở Heijōkyō được gọi là ao Koshida (ngày nay là hồ chứa nước Gotoku). Khúc Giang được coi là một trong những thắng cảnh nổi tiếng nhất của Trung Quốc thời Đường, được bao quanh bởi cảnh quan tuyệt đẹp, bao gồm cả một khu vườn hoàng gia tuyệt đẹp. Đây là một điểm đến phổ biến trong giới quý tộc, và những học sinh đỗ kỳ thi tuyển vào chức quan cũng thường mời bạn bè đến đây để tiệc tùng. Thậm chí còn có một trò chơi uống rượu phổ biến gọi là Khúc Giang Nổi Uống, trong đó một chiếc cốc đầy rượu được thả trôi trên mặt nước, và khi nó dừng lại trước mặt ai đó, người đó phải uống cạn cốc. Trò chơi này là một cảnh tượng nổi tiếng ở Trường An, và cũng được nhắc đến trong thơ ca.
Khi nhà Đường sụp đổ, Khúc Giang cũng bị bỏ hoang, và chỉ còn trơ trọi một ngàn năm sau đó. Tây An hiện đại có Công viên Di tích Khúc Giang Trì, được xây dựng vào năm 2007, nhưng nó chỉ là một công viên được xây dựng trên nền đất cũ. Công viên giải trí Đường Thiên Đường cũng ở gần đó, nhưng tên tiếng Trung của nó – Đại Đường Phù Dung Nguyên – không nhắc đến Khúc Giang. Đó là bởi vì một vị hoàng đế nhà Tùy không thích chữ “Khúc” (có nghĩa là “cong”), nên đã đổi tên Khúc Giang thành Phù Dung, tên tiếng Trung của hoa hồng bông.
Đáng buồn thay, Koshida, nằm ở phía đông nam Heijōkyō, dường như không được yêu thích bằng Khúc Giang. Heijōkyō chỉ là kinh đô trong khoảng 70 năm, và mặc dù Nhật Bản đã áp dụng nhiều hệ thống của Trung Quốc, nhưng vì lý do nào đó, họ đã tránh hệ thống khoa cử của triều đình (và cả hệ thống hoạn quan chính thức nữa). Tuy nhiên, khi dạo quanh khuôn viên cung điện Heijō cũ, tôi không khỏi nhớ đến khung cảnh ở Công viên Di tích Khúc Giang Trì.
Công viên di tích Khúc Giang Trì
Đi về phía nam từ Daigokuden dọc theo con đường trung tâm, đường ray xe lửa chìm trong biển cỏ bạc gió thổi. Sau khi băng qua đường ray, cổng Suzakumon được xây dựng lại hiện ra trước mắt. Nó gợi nhớ đến cảnh tượng tôi đã thấy qua cửa sổ tàu trên tuyến Kintetsu Nara. Nó cũng khiến tôi tự hỏi tại sao một tuyến đường sắt lại chạy qua trung tâm của cung điện Heijō cũ, một di tích lịch sử được công nhận cấp quốc gia và là Di sản Thế giới đã được đăng ký. Chẳng phải thật không phù hợp khi một tuyến đường sắt chạy qua địa điểm của một cung điện hoàng gia cũ, bộ mặt của quốc gia cổ đại sao?
Có vẻ như đoạn đường ray này đã được đặt trước khi bất kỳ ai bắt đầu khai quật tàn tích cung điện, nên không ai có thể làm gì được khi tàn tích được phát hiện. Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng nên di dời đường ray để tránh khu vực cung điện cũ. Dự kiến hoàn thành vào khoảng năm 2060. Khi hoàn thành, trải nghiệm độc đáo khi đi tàu xuyên qua tàn tích, ngắm nhìn cổng cung điện được phục chế từ cửa sổ, sẽ không còn nữa. Năm 2060 vẫn còn gần 40 năm nữa. Ngay cả việc tưởng tượng mình sẽ làm gì lúc đó cũng khiến tôi chóng mặt.
Cổng Suzakumon sừng sững giữa đồng cỏ bạc.
(Xuất bản lần đầu bằng tiếng Nhật. Ảnh tiêu đề: Công trình tái thiết chính điện của cung điện Heijō, Daigokuden, hiện vẫn nằm hoang vắng. Tất cả ảnh © Li Kotomi.)
Discover more from TIN THƠ
Subscribe to get the latest posts sent to your email.