Nửa đêm trăng lặn về doanh trại
Nghe trời cao, tiếng gà rừng
Chờ bình minh cuộn tròn trong giấc ngủ
Người nông dân trồng lúa đi ngang qua sân…
Hình ảnh này vẫn còn in sâu trong tâm trí tôi khi nhớ về thế hệ của mình khi còn nhỏ. Giây phút ấy bình yên đến lạ. Bạn có thể nằm duỗi chân trên chiếc võng đung đưa. Hãy hít một hơi thật sâu và thở. Đôi mắt ngước nhìn những vì sao nhỏ xíu trên bầu trời xa xăm. Hương rừng đêm khuya dường như dịu dàng hơn, thoang thoảng trôi đi đâu đó. Lúc đó các chiến sĩ trong trung đội tôi đang trong độ tuổi ăn và ngủ. Mỗi khi nằm xuống, tôi đều ngủ như chết. Nhiều ngày ở trạm kiểm soát đánh nhau dữ dội đến nỗi không ai ngủ được. Những người lính đã đi qua chiến tranh với đôi mắt thức suốt đêm như thế, chỉ riêng điều đó thôi mà tôi thấy thương biết bao. Luôn muốn ngủ. Nhưng tối nay thì khác.
Ngày mai Tết đến! Một cái Tết hoàn toàn khác biệt với mọi người Tết
mà tôi đã chấp nhận trong cuộc đời mình. Tết ở chiến trường K. Thật lạ, dù ở đâu, mỗi khi nghe đồng đội thì thầm: “Gần Tết rồi”, tôi chợt buồn nôn và có chút bối rối. Nếu ở nhà thì bây giờ tôi sẽ làm gì? Câu hỏi đó, không chỉ một lần, mà trong tương lai, mỗi khi Tết đến gần, nó lại ùa về như một lời nhắc nhở thầm lặng. Không chỉ có tôi. Hỏi thì mới biết ở đơn vị tôi ai cũng như vậy. Tết năm đó như thế nào?
Khi có ít gạo tôi hái măng
Giày hở mõm gây lạnh chân
Nửa đêm dậy ăn cháo khỉ
Hồi hộp chờ lệnh hành quân…
Lúc đó chúng tôi đóng quân ở Choan-san, xa trong rừng sâu, không thể vận chuyển tiếp tế từ căn cứ hậu phương. Việc đón Tết vẫn như thường lệ phải không? Tôi còn nhớ rõ câu nói đại đội trưởng ra lệnh cho các trung đội cử người vào rừng… hái măng. Đó cũng là lần đầu tiên tôi biết đến từ “cải tiến”, tức là tìm kiếm những thực phẩm bổ sung để bổ sung vào bữa ăn hàng ngày để ngon hơn và “tươi hơn”.
Nói một cách đại khái, buổi sáng đội nuôi quân mang một thúng gạo đến cho mỗi người lính. Đến trưa, lúa lại được vớt. Cơm để tơi gọi là cơm nóng. Bộ đội ăn cơm nóng, cơm nắm vắt hết buổi chiều. Những ngày chiến đấu kéo dài, quân lính không mang theo được lương thực nên phải ăn cơm khô. Đó là gạo khô được đựng trong túi nhựa. Người lính đổ nước vào lon đợi từng hạt gạo nở ra mới ăn.
Về đồ ăn thì không có nhiều. Một lon thịt hộp cho nửa công ty. Một lon sữa cho 7 người. Một gói Nông dược dành cho 2 người. Vì kinh phí eo hẹp nên thức ăn cho các chiến sĩ trong thời gian ở trạm kiểm soát là muối mè hoặc một lon thịt nấu với 2 lít nước chia đều cho mọi người. Rau xanh quý hơn vàng. Có rau hay không còn tùy thuộc vào khả năng hái và tìm kiếm của đội nông dân.
Vì thế dịp Tết năm đó, dù ở doanh trại dã chiến nhưng chúng tôi vẫn phải “cải tiến”. Đó là Tết! Tất cả măng tươi mới hái đều được chế biến rất ngon miệng. Điều tuyệt vời nhất là người nông dân đã hào phóng bổ sung thêm nhiều ounce thịt hộp thay vì nấu theo tiêu chuẩn hàng ngày. Đón giao thừa cũng là lúc “nửa đêm dậy ăn cháo khỉ”. Cả đơn vị vui như ngày hội. Ăn Tết trước, vì sau đó sẽ có lệnh hành quân. Hành quân xuyên đêm và rạng sáng ngày mùng một cũng là lúc toàn đội núp sau ụ mối, gốc cây. Im lặng chờ lệnh đồng loạt nổ súng.
Sống trong tâm trạng của ngày đầu Tết, tôi cảm thấy hồi hộp. Giữ hơi thở của bạn. Nheo mắt… và bóp cò. Tiếng nổ vang lên. Đối với tôi, điều sau là một nỗi ám ảnh, một ấn tượng. Không thể nào quên. Tôi còn nhớ, hơn 5 năm ở chiến trường K, khi tôi đi nghĩa vụ về nhà, đã xảy ra chuyện, vừa chứng kiến mẹ tôi, mẹ đã bật cười rồi lại lén lấy tay lau nước mắt. Rằng, vào dịp Tết một năm, ngay cạnh nhà tôi có một đám cưới. Đang ngủ trưa ngon lành, tôi chợt giật mình khi nghe thấy tiếng pháo nổ. Với thói quen ngày ngày ra trận, theo phản xạ, từ trên giường cao, tôi… liền lăn xuống đất.
Những cái Tết đi qua đời người lính, dù chỉ là số ít trong những cái Tết của đời người nhưng tôi và đồng đội vẫn nhớ nguyên vẹn. Làm sao có thể quên ngày Tết khi chúng ta làm ra chiếc bánh chưng vô cùng độc đáo? Sau này nhìn lại, trong lòng tôi luôn cảm động một cách chân thành. Hồi đó, dù đóng quân ở vùng Đông Bắc xa xôi ở Anlong Veng nhưng ai cũng mong muốn được “có bánh chưng”.
Trong khó khăn mới xuất hiện trí tuệ. Đội ngũ nuôi của công ty tôi cũng nấu cơm như mọi ngày, sau đó lấy cơm nóng cho vào khăn tay, rồi nhào đi nhào lại, từng hạt trộn vào nhau, gói trong lá rồi buộc bằng dải tre để tạo thành một chiếc bánh. vuông vức vậy. Bên trong mỗi chiếc bánh chưng này vẫn có nhân, thay vì thịt béo ngậy thì được rắc đường thốt nốt ngọt ngào.
Đêm giao thừa, những chiếc bánh chưng đó được tập trung tại nhà thùng của đại đội trưởng. Chúng tôi đặt nó trên một chiếc bàn tre, phía sau có treo lá cờ Tổ quốc. Mọi người long trọng đón giao thừa với niềm hạnh phúc tột độ. Khi đó, chúng tôi cảm thấy Tổ quốc rất gần gũi khi nghe chương trình mừng xuân, Tết của Đài Tiếng nói Việt Nam từ đài chỉ huy đại đội. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ mãi khoảnh khắc thiêng liêng ấy, dù thời gian có trôi đi lãng quên.
Những ai đã từng trải qua Tết trong cuộc đời người lính sẽ khắc sâu trong tâm trí, bởi đó là một phần thanh xuân của chính họ. Đôi khi sau này, khi đi chợ Tết, dạo quanh những con đường hoa xuân trong sự nhộn nhịp, vui tươi của phố phường bình yên, đôi khi xao xuyến trong ký ức vẫn là nỗi nhớ:
Nhà đồng ruộng mái tranh Danrek
Gió nóng là hơi thở của rừng
Gió thổi qua vùng nhiệt đới
Khói cháy rừng phía sau bạn
chúng tôi chào đón mùa xuân
mời nhau tắm suối
Nước đã khô
Gió thổi tung cát bụi tung lên
Nước để uống ở đâu?
mồ hôi chảy đầm đìa
một ngàn lần
quý giá…
Làm sao tôi có thể quên được dấu ấn này? Xuân đến, Tết đến. Lần đó ước gì mình được thả mình trong làn nước mát, ôi chao, hạnh phúc biết bao! Thực lòng mà nói bây giờ, có lẽ nhiều người sẽ không tin. Không sao đâu, tôi vẫn nói sự thật trong lòng. Có dịp Tết, khi đơn vị đóng quân ở làng nhân dân, nhân dân yêu quý các chiến sĩ xung phong và mang theo nhiều quà gồm thịt gà, xôi, cá tươi… để “yêu trẻ em Việt Nam” (lính Việt Nam tốt bụng) ăn Tết ngon, để “cải tiến” cách đón Tết “tươi ngon”. Nhưng rồi chúng tôi phải từ chối, biết phải làm gì, vì trước khi lên đường thực hiện nghĩa vụ quốc tế, chúng tôi luôn được dặn chỉ dùng 3 thứ: không khí, nước và củi.
Lại xuân về, ta đón Tết cùng người. Nó rất vui! Đọc kỹ dòng cuối cùng của bài thơ này, các bạn sẽ phần nào hình dung được chân dung của thế hệ chúng ta ngày ấy:
Tiếng trống giục bước chân
Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ gặp mùa xuân
Gió mang về vị đường thốt nốt
Thì thầm nhắc nhở mình sắp đi Phum
Tiếng chim puk vang lên trên quê hương chùa tháp
Người lính đã bướng bỉnh từ lâu
Đột nhiên, anh đột nhiên mặc bộ quân phục
Khi bạn bước vào trung tâm thương mại, bạn gái của bạn sẽ nhìn sang một bên…
Bài thơ này được viết ở Ka-da trên đất K vào mùa xuân, năm đó tôi tròn 20 tuổi. Và lúc đó, tôi bắt đầu biết được những rung động đầu tiên của cuộc đời mình…
Nhà thơ LÊ MINH QUỐC
—————————–
Những câu thơ trong bài được trích từ tập thơ “Đất ngoài Tổ quốc” của Lê Minh Quốc, Nxb Văn học, 1998. *Mời độc giả đọc chuyên mục
Văn hóaXem tin tức, bài viết liên quan.