Phạm Hiền Mây
I. NHÀ THƠ DU TỬ LÊ
Tên khai sinh của Du Tử Lê là Lê Cự Phách. Ông sinh năm 1942 tại Hà Nam, Việt Nam và mất năm 2019 tại Orange County, Hoa Kỳ.
Du Tử Lê là một nhà thơ. Đương nhiên rồi. Và là một nhà thơ tên tuổi.
Ông cũng từng là sĩ quan quân đội, từng là thư ký tòa soạn và giáo sư thỉnh giảng. Từng được giải thưởng văn chương toàn quốc. Từng là một trong ba nhân vật đặc biệt được nêu tên cùng với Mai Thảo và Phạm Duy vào năm 1975.
Nếu Google, hẳn chúng ta sẽ ngợp trước các thông tin vinh dự về ông, nào là nhà thơ châu Á duy nhứt được hai tờ báo lớn của Mỹ đăng thơ và phỏng vấn. Nào là thơ ông được đưa vào làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại các đại học Mỹ và châu Âu. Rồi thì có tên trong tuyển tập thi ca thế giới. Và, nổi tiếng này. Và, lừng danh kia.
Nếu hỏi tôi, lúc này đây, ngay lúc này đây, lúc tôi đang gõ những con chữ này đây, rằng thì là, tôi thích thơ ai nhứt, trong số các nhà thơ hiện đang ở tại hải ngoại sau năm 1975, thì tôi sẽ trả lời ngay mà không chần chừ, ngần ngại – Du Tử Lê.
Nếu hỏi tôi tiếp, rằng thì là, tôi thích vì lẽ gì, thì tôi cũng thưa ngay mà không cần do dự, nghĩ suy, tôi thích, vì thơ ông hợp với tạng tôi.
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi, thơ ông đẹp.
Đẹp và có chiều sâu.
Từ cái cách đặt dấu câu, như dấu chấm, dấu phẩy và các loại dấu khác của ông trong thơ, cho đến việc dụng những chữ thơ mang tính nhỏ nhẹ, mềm mại, dịu dàng, ngay cả khi cuộc tình, ngay cả khi cuộc đời ông, đang ở mức đớn đau, thống khổ nhứt, cũng đều khiến tôi thích.
Từ những ý tưởng sẵn sàng chấp nhận phần thiệt thòi, sẵn sàng hy sinh đời mình hết cho tình, đến những nỗi sầu muôn niên về thân phận, về kiếp người, về nỗi buồn ly hương, về nỗi nhớ thương vời vợi, và cả nỗi cô đơn rất đặc trưng của nòi văn nghệ sĩ, tôi cũng thích nốt.
Một bạn văn thân thiết của tôi, nhận xét, thơ ông điệu, có phần đỏm dáng. Tôi liền tra xem, đỏm dáng là gì, thì ra, đỏm dáng là đẹp một cách chải chuốt.
Cũng có thể là như thế, Du Tử Lê dụng từ khá chải chuốt. Nhưng đã sao? Chải chuốt, trau chuốt từ ngữ khi làm thơ, khi viết văn, với tôi, là việc chẳng có gì sai, chẳng có gì xấu. Nó là một phần của tính cách cầu toàn, toàn mỹ, toàn bích. Nó thuộc về tính người. Mà ngẫm lại, tôi cũng như thế, hệt ông.
Nếu trước khi nói, người cẩn thận phải uốn lưỡi bảy lần, thì khi viết, tôi cũng chọn đi chọn lại trong đầu ngần ấy lần những từ, những ngữ, cho đến khi nào tôi thấy ổn, cho đến khi nào tôi thấy vừa ý mình rồi, tôi mới đặt bút xuống, hoặc gõ xuống bàn phím.
Tánh cách kỹ lưỡng, thận trọng ấy, thể hiện sự tôn trọng người đọc, bạn đọc. Trọng người, người tất sẽ phải trọng ta.
II. BÀI THƠ GIỮ ĐỜI CHO NHAU
Tôi không biết chắc chắn số thi phẩm mà thi sĩ Du Tử Lê để lại cho đời là bao nhiêu, nhưng từ Mỹ, bà Hạnh Tuyền, vợ của ông, gởi người mang về tặng tôi bộ Thơ Du Tử Lê (Toàn Tập), với lời đề: Gửi em Phạm Hiền Mây, như một lời cảm ơn của anh chị. Thay mặt anh Du Tử Lê. Chị Hạnh Tuyền ký tên. Cali, Jan 05, 2024. Thì mỗi tập với độ dày cỡ năm, sáu trăm trang, chứa khoảng một trăm năm mươi bài cho một tập. Tổng tập như vậy là khoảng sáu trăm bài thơ có.
Sáu trăm bài thơ. Bây giờ, giả sử có người hỏi tôi, tôi thích bài nào nhứt, thì… , chịu. Số bài thơ mà tôi thích, có lẽ cũng phải cỡ vài mươi bài.
Một phóng viên báo nọ thống kê, có khoảng ba trăm bài thơ của Du Tử Lê được phổ nhạc. Nếu con số ấy là có thực, thì tôi cho rằng, Du Tử Lê, có lẽ là nhà thơ có số lượng thơ phổ nhạc nhiều nhất nước Việt Nam.
Như bài dưới đây chẳng hạn, được Phạm Duy phổ thành ca khúc Kiếp Sau Xin Giữ Lại Đời Cho Nhau và Từ Công Phụng phổ thành ca khúc Giữ Đời Cho Nhau (Ơn Em).
GIỮ ĐỜI CHO NHAU
ơn em, thơ dại từ trời
theo ta xuống biển vớt đời ta trôi
ơn em, dáng mỏng mưa vời
theo ta lên núi về đồi yêu thương
ơn em, ngực ngải môi trầm
cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan
ơn em, hơi thoảng chỗ nằm
dấu quanh quẩn dấu nỗi buồn một nơi
ơn em, hồn sớm ngậm ngùi
kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.
Bài thơ được viết năm 1970, khi ấy, ông chỉ mới hai mươi tám tuổi.
Tôi nói, chỉ mới, có nghĩa là tôi ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì trẻ thế mà đã viết được một bài thơ với những lời lẽ đằm thắm, già dặn đến thế.
Trong tình yêu, ít ai còn trẻ mà biết ơn nhau lắm. Cần phải có một độ dài tương thích về thời gian thì người ta mới có thể, lắng lòng lại, mà nghĩ về, mà tổng kết về những gì họ đã trao cho nhau, cả hạnh phúc lẫn khổ đau, để rồi từ ấy, mới có thể thốt lên một cách chân thành, sự biết ơn với người yêu, với người bạn đời của mình.
II.1. ƠN EM, THƠ DẠI TỪ TRỜI
ơn em, thơ dại từ trời
theo ta xuống biển vớt đời ta trôi
ơn em, dáng mỏng mưa vời
theo ta lên núi về đồi yêu thương
Thơ, đôi khi chỉ là một nghĩ suy bất chợt, vừa lóe lên, vừa khám phá ra, vừa nhận thức ra, của người viết, về tình yêu, về thế thái, về cuộc đời, chẳng hạn.
Và không hiếm, sau vài dòng, sau vài trang giấy bày tỏ những nghĩ suy của tác giả, thơ hiện ra, mỏng tang, mơ hồ, vô định, không có đường nét rõ ràng. Thậm chí, có những bài thơ, đọc tới đọc lui vài lần, mà người đọc vẫn cứ ngẩn ngơ, không biết ý tác giả muốn nói gì.
Thơ, nhiều lúc, chỉ có thể cảm, cảm giác, cảm về tiết điệu, cảm về chữ dùng, cảm về “chất” thơ, cảm về “mùi” thơ, chớ không phải lúc nào cũng hiểu được.
Nói như Tạ Trân, nhà thi thoại đời nhà Minh bên Trung Hoa, thì: Thơ có chỗ khả giải, bất khả giải, bất tất giải, giống như hoa dưới nước, trăng trong gương, không cần câu nệ tới dấu tích.
Sở dĩ tôi phải dài dòng như vậy, vì, thơ mang dấu ấn cá nhân, tức tâm tình riêng của người viết, nhiều lắm. Và không phải bất kỳ tâm tình riêng nào của họ, mình cũng rõ được.
Bài thơ Giữ Đời Cho Nhau, là bài thơ mà Du Tử Lê viết về vợ ông, viết tặng vợ ông, bà Phan Hạnh Tuyền.
Nên “thơ dại” đây, có lẽ, ngày ấy, bà còn trẻ, nên còn mang nhiều nét ngây thơ, hồn nhiên, như các nàng tiên nơi thượng giới.
Và “theo ta xuống biển vớt đời ta trôi”, liệu có phải nói về chuyến di tản năm 1975 của ông bà? Thêm vào đó, nhà thơ thường tự nhận mình là “du tử”, kẻ giang hồ phiêu bạt, nên dùng câu “đời ta trôi” để mô tả mình cho thích hợp chăng?
Còn “dáng mỏng mưa vời” là vì Huế quanh năm suốt tháng, mưa dầm mưa dề? Là vì bà Hạnh Tuyền, dáng gầy, lại mặc áo dài đi dạy học, nên nhìn nàng rất mong manh, mỏng mảnh?
Cuối cùng, “theo ta lên núi về đồi yêu thương”, có phải là ông muốn nhắc đến kỷ niệm, đã “dụ” thành công được bà, xin thuyên chuyển từ Huế về Pleiku dạy học, để gần nơi ông đang công tác?
Tôi đoán thế thôi, chớ đọc thơ ấy mà, chẳng cần phải cặn kẽ, chi li, tiểu tiết, bổ ngang, bổ dọc như vậy, chỉ tổ nát bấy bài thơ, nát bấy tính thơ.
Tôi là chúa ghét kiểu đọc thơ như thế này. Tôi đọc thơ lớt phớt, cảm thơ là chính. Cái gì được gọi là thơ thì tự nhiên nó luẩn quẩn hoài trong đầu, cái gì tào lao, không chút tính thơ, nó sẽ tự động bị đẩy ra ngay!
II.2. ƠN EM, NGỰC NGẢI MÔI TRẦM
ơn em, ngực ngải môi trầm
cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan
ơn em, hơi thoảng chỗ nằm
dấu quanh quẩn dấu nỗi buồn một nơi
Nhiều người thắc mắc “ngực ngải” là gì, “môi trầm” là gì, “cỏ mặn” là gì, “lá ngoan” là gì?
Với tôi, đây chính là khả năng sáng tạo ngôn ngữ của nhà thơ.
Khả năng sáng tạo ra những hình ảnh ẩn dụ, mà nếu tác giả không nói ra, thì người đọc cũng chịu, không biết nhà thơ đang muốn ám chỉ đến điều gì.
Nhưng lại tuyệt tới mức, ngay cả khi người đọc không hiểu, mà vẫn thấy những khó hiểu ấy hay hay, mà vẫn thấy câu thơ rất nên thơ.
Ngực ngải, môi trầm, có phải là muốn nói đến vẻ đẹp quyến rũ, đầy sức hút của cơ thể người con gái?
Cỏ mặn, là nước mắt của em, trong hiến dâng lần đầu? Lá ngoan, là sự ngọt ngào, ấm áp, khi đôi tình nhân gần kề nhau, và trao cho nhau hết tất cả những âu yếm, nồng nàn thịt da?
Em đến, và em đi. Hương thơm da thịt em, như vẫn chỗ nằm kề, khiến anh chỉ muốn đắm chìm hoài trong biển của hạnh phúc, mà em vừa trao anh.
Nhưng vì hương ấy, chỉ còn chút, chỉ như thoảng qua, thành thử, anh tìm không ra. Dấu vết quanh quẩn ấy, đã làm anh buồn suốt những ngày phải xa em!
II.3. ƠN EM, HỒN SỚM NGẬM NGÙI
ơn em, hồn sớm ngậm ngùi
kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.
Tình yêu, nào chỉ có niềm vui và hạnh phúc. Tình yêu, nhiều hơn những vị ngọt ngào, là nỗi buồn, là đớn đau, là thất vọng, là ê chề, là não nùng, sầu khổ.
Du Tử Lê cũng không ngoại lệ.
Có những lúc, trong tình yêu, ông cũng cảm ra nỗi ngậm ngùi, thấy ra muôn vàn tâm trạng khi thăng, khi trầm, khi say mê, si dại, khi chán chường, bế tắc.
Nhưng có hề chi.
Lòng chàng đã quyết. Ý chàng đã định.
Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau!
III. CA KHÚC GIỮ ĐỜI CHO NHAU (ƠN EM) CỦA NHẠC SĨ TỪ CÔNG PHỤNG
Khi phổ thành nhạc, Từ Công Phụng không hề bỏ bớt một chữ thơ nào của Du Tử Lê. Ông giữ trọn vẹn bài thơ Giữ Đời Cho Nhau, chỉ thêm vào khổ thứ ba hai câu: Ơn em, tình những mù lòa / Như con sâu nhỏ bò qua giấc mùi.
Hai câu này của Từ Công Phụng, cũng rất thơ.
Ngoài ra, Từ Công Phụng còn thêm vào những câu điệp sau mỗi đoạn: tạ ơn em / tạ ơn em, nhằm nhấn mạnh lòng biết ơn của tác giả với người đồng hành cùng mình trong cuộc trăm năm.
Ơn em, thơ dại từ trời
Theo ta xuống biển vớt đời ta trôi
Ơn em, dáng mỏng mưa vời
Theo ta lên núi về đồi yêu thương
Tạ ơn em. Tạ ơn em.
Ơn em, ngực ngải môi trầm
Cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan
Ơn em, hơi thoảng chỗ nằm
Dấu quanh dấu quẩn nỗi buồn một nơi
Tạ ơn em. Tạ ơn em.
Ơn em, tình những mù lòa
Như con sâu nhỏ bò qua giấc mùi
Ơn em, hồn sớm ngậm ngùi
Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau
Tạ ơn em. Tạ ơn em.
IV. DU TỬ LÊ, NGƯỜI CÁCH TÂN VÀ TẠO ĐƯỢC SỰ ĐỘC ĐÁO RIÊNG VỀ VỊ TRÍ DẤU CÂU TRONG THƠ
Nhiều người cho rằng, những hằng hà sa số các dấu câu trong thơ Du Tử Lê, là một kiểu của cách tân lục bát.
Nhận định như vậy, cũng chẳng gì sai. Nhưng với tôi, các dấu câu được sử dụng một cách rất Du Tử Lê – tức trong ngữ pháp hiện hành của Tiếng Việt xưa nay, người ta sử dụng khác – nếu có mang mục đích cách tân, thì cũng chỉ là ít thôi, không đáng kể. Lớn hơn, đó là chủ đích trong việc trình bày, đây là tôi, đây chính là tôi, Du Tử Lê, người viết bài thơ này.
Việc làm mới lục bát ấy mà, không chỉ Du Tử Lê, mà với bất kỳ một người làm thơ nào, yêu thể thơ lục bát, và cảm thấy mình có trách nhiệm với thể thơ này, đều mong muốn làm mới nó.
Nhưng ngoài việc làm mới, tôi nhận ra, đó còn là cách ông mang thơ đến gần với người đọc thơ ông hơn. Thay vì, phải giải thích hết lời với bạn đọc, rằng bài ấy có nghĩa thế này, rằng bài đó có nghĩa thế kia (thế thì còn gì là thơ nữa), thì ông nhắn nhủ, hãy đọc thơ tôi cùng với những dấu câu kèm theo.
Bạn biết dấu câu trong ngữ pháp đóng vai trò gì không? Dấu câu là ranh giới, nhằm phân biệt thành phần này với thành phần nọ, câu này với câu kia, ý này với ý đó.
Vì vậy, đọc thơ Du Tử Lê (hay bất kỳ thơ ai khác), bạn hãy chậm lại, dừng lại ở các dấu câu, rồi hãy nhẩn nha đi tiếp. Đừng vội vàng. Đọc thơ, xin đừng vội vàng và cũng đừng ôm đồm. Cứ từ từ, chầm chậm, bạn sẽ ngạc nhiên đến vô cùng khi chợt thấy mình thấu đáo đến từng ngõ ngách của bài thơ, bởi bằng việc đọc chậm, bởi bằng việc, mình biết dừng khẽ lại vài giây, để ngẫm nghĩ, sau mỗi dấu câu.
V. NHỮNG CHUYỆN VIẾT THÊM VỀ DU TỬ LÊ
Trước hết là về bà Phan Hạnh Tuyền.
Bà Hạnh Tuyền vốn là một cô giáo. Bà tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế năm 1974.
Hạnh Tuyền không chỉ là người yêu, người bạn đời, bà còn là người yêu Du Tử Lê nhiều nhất. Bà sống cho ông, sống vì ông, bằng hết cả cuộc đời mình.
Ông mất, đến nay, cũng đã gần được sáu năm. Bà vẫn tiếp tục cố gắng duy trì trang nhà Du Tử Lê. Còn trang facebook chung của ông và bà xưa kia, thì nay vẫn hoạt động đều đặn, với tràn ngập hình ảnh ông, tràn ngập kỷ niệm ông và thơ của ông.
Riêng với tôi, Du Tử Lê là ân nhân.
Chín năm trước, khi họa sĩ Khánh Trường, người bạn vong niên thân thiết nhứt của tôi, nhờ ông viết Tựa cho cuốn thơ đầu tay, Lục Bát Phạm Hiền Mây, ông ngay lập tức nhận lời.
Ông ngay lập tức nhận lời, ngay cả khi, giữa tôi và ông, chưa từng quen biết nhau. Ông viết lời giới thiệu dựa trên bản thảo thơ do anh Khánh Trường gởi qua.
Bài Tựa Du Tử Lê viết cho cuốn thơ đầu tiên của tôi, có nhan đề: Phạm Hiền Mây, Treo Cao Lục Bát Vàng Son.
Ông viết nhận định về tôi, dài hai trang A4, xin được trích lược vài dòng hầu bạn đọc:
Hôm nay, tôi xin gửi sự khâm phục của cá nhân tôi vào thi phẩm Lục Bát Phạm Hiền Mây.
Phạm Hiền Mây là người tình chung thủy của lục bát, nên tôi tin, người đọc sẽ không ngạc nhiên lắm, khi ngay từ những vần thơ thứ nhất của thi phẩm Lục Bát Phạm Hiền Mây, đã tươm đậm hồn tính ca dao Việt Nam ngày qua và, những so sánh hay liên tưởng đương đại:
bụi hoa xưa đã lên vài
nhánh vàng cổ tích dốc dài tình nhân
(trích “giữ lời tìm nhau”)
Hay:
mặn em nhỏ xuống chẳng dừng
trên vai anh ướt không ngừng trời mau
mưa nghiêng trút xuống nỗi đau
trái oan khiên chín đỏ au phận người
vết thương chín mọng ngực đời
và em quả chín rụng lời từ ly.
(trích “vô thường nhỡ mai”)
Khởi tự tính từ “mặn” chỉ nước mắt, trên vai người yêu, Phạm Hiền Mây dùng lục bát để dẫn cơn mưa, nỗi đau, đi lần tới “trái oan khiên chín đỏ”, là sự rụng xuống (không thể khác hơn?) của những lời từ ly.
Hoặc nữa:
nắng lâm chung tắt thình lình
chưa hoàng hôn đã một mình niềm riêng
môi vào nhau sớm thần tiên
dậy thì đánh rớt tháng giêng nhớ người.
(trích “tháng giêng nhớ người”)
Bằng vào ghi nhận của tôi, Phạm Hiền Mây không chỉ có khả năng nhân cách hóa một cách bất ngờ mà, họ Phạm còn có khả năng làm mới thơ mình bằng vào những tương tác vi tế mà, nếu không phải là người nữ, tôi e, các tác giả khác, sẽ rất khó cảm và nhận. Thí dụ:
mùa đông, một sớm mùa đông
không dưng em mắt môi nồng tình anh.
(trích “mình yêu nhau nhé")
Hoặc:
tiễn anh đếm lá hồn mình
(trích “phù du yêu người”)
Hoặc nữa:
tóc dài ngọn hẹn rưng rưng
chờ giây phút được giọng mừng dạ thưa.
(trích “nhớ anh thôi đã rất thừa mùa đông")
Bên cạnh đó, Phạm Hiền Mây cũng cho thấy chủ tâm khai thác từ kép của Tiếng Việt, để dòng chảy thi ca có được nhịp lẻ, khác hơn nhịp chẵn hay đều (2/2/2 hoặc 3/3) quen thuộc, nhàm chán:
đời em mộng sóng lênh đênh
ướt em giấc ngủ muộn bềnh bồng trôi.
(trích “lênh đênh sóng rồi")
Vì tính từ “bềnh bồng” là từ kép, không thể tách bạch, nên nhịp đi của câu thơ tám chữ này, với tôi, ít nhất cũng có được cho nó hai nhịp lẻ là:
ướt em / giấc ngủ / muộn bềnh bồng / trôi.
(2/2/3/1)
Tôi còn một kỷ niệm nữa, với Du Tử Lê, do chính bà Hạnh Tuyền kể lại:
“Anh Lê khen tên em lắm. Anh nói, cái tên Phạm Hiền Mây ấy mà, đọc lên, nghe rất hay, rất thơ.”
Và, thơ tôi, ngay từ khi mới trình làng (cũng như cho đến mãi mãi về sau), tôi không bao giờ viết hoa các chữ đầu câu. Thậm chí, tên riêng, trong thơ, tôi cũng viết thường luôn. Điều này, tôi thừa nhận, tôi chịu ảnh hưởng của các tiền bối Hoàng Lộc, Du Tử Lê, và sau này, tôi mới biết, cả nhà thơ Đỗ Trung Quân cũng có thói quen như thế.
VI. KIẾP SAU XIN GIỮ LẠI ĐỜI CHO NHAU
Bạn có tin, chết không là hết?
Bạn có tin, chúng ta sẽ luân hồi và tái sinh?
Bạn có tin, duyên nợ?
Điều này, có lẽ còn phụ thuộc vào tôn giáo mà bạn đang theo. Còn tôi, thì tôi tin. Tôi rất tin.
Tin, để trước hết, biết sợ. Biết sợ sống sai. Biết sợ làm ác. Biết sợ gánh không nổi những tội lỗi mình đã gieo. Biết sợ nghiệp quả, sẽ đến ngay trong cả kiếp này, chớ không chỉ những kiếp mai sau.
Tin, kế tiếp, để tự an ủi mình trong những lúc lên bờ xuống ruộng, lúc đường đời không như ý, không bằng phẳng. Tin, để tự vỗ về mình trong những lúc vất vả, khó khăn. Tin, để tự dỗ dành mình trong những lúc khổ đau, tuyệt vọng. Và tin, để tự biết răn đe mình, khi đã gắng hết sức rồi, mà vẫn thất bại, không may.
Tin, để cuối cùng, biết nuôi hy vọng.
Tôi, cũng như Du Tử Lê, không khác mảy may.
Tôi sống trong mỗi ngày, cân nhắc từng nghĩ suy, cân nhắc từng lời nói ra hay viết xuống, cân nhắc từng thái độ, hành vi của mình.
Và, ngày nào cũng như ngày nấy, hệt Du Tử Lê, bất di bất dịch, tôi niệm lời hẹn ước, không thay không đổi với Người. Tất nhiên, đó là Người mà tôi viết hoa, viết hoa vì không chỉ yêu mà còn là sự tôn trọng. Người đương trong trí óc tôi đây, Người đương trong trái tim tôi đây, rằng:
KIẾP SAU XIN GIỮ LẠI ĐỜI CHO NHAU!
Sài Gòn 22.07.2025
THƠ CHO NHỎ
Thân ngựa chạy một đêm sầu gió núi
đứng nhìn theo ngọn suối đứng riêng trời
hơi thở ngọt em một thời phong kín
nhớ nhung gì em buộc tóc chia đôi
Con sóc nhỏ mang hồn lên núi lạ
ta chim rừng cánh đã mỏi thương đau
hương cỏ dại mát chân người ngà ngọc
em bảng đen vôi trắng giết đời nhau
Trăm con bướm bay về chung một ngõ
suối xôn xao suối phải tự xuống nguồn
em áo lụa dáng gầy hơn bóng núi
rừng ơi rừng cây đợi đã bao năm
Em tinh khiết giữa đời ta bụi bặm
gọi ta về trong bóng nắng thơ ngây
em mới lớn nên tình như thác gọi
thương dùm ta thân ngựa đã xa bầy
1971
ĐÊM, NHỚ TRĂNG SÀI GÒN
Đêm về theo vết xe lăn
Tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng
Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố sương quàng cỏ cây
Ngỡ hồn ta xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
Đêm về theo bánh xe qua
Nhớ em xa lộ nhớ nhà Hàng Xanh
Nhớ em kim chỉ khứu tình
Trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
Nắng Trương Minh Giản trưa hè Tự Do
Nhớ nghĩa trang quê hương bạn bè
Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường
Đêm về theo vết xe lăn
Tôi trăng viễn xứ sầu em bến nào?
1978 - Bài thơ đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc thành bài hát cùng tên
https://thotanhinhthucviet.vn/product/bao-tho-so-1
Discover more from TIN THƠ
Subscribe to get the latest posts sent to your email.