Học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội được Marx giải thích trong triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử, Mác đã chỉ ra rằng phép biện chứng phát triển xã hội loài người là lịch sử xuất hiện, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao, đó là: Chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy; chế độ nô lệ; phong kiến; chủ nghĩa tư bản; chủ nghĩa cộng sản.
Quan điểm của Mác nêu rõ: “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”(1). Marx cũng chỉ ra rằng một dân tộc hay dân tộc nào đó, trong những điều kiện cụ thể, không nhất thiết phải phát triển tuần tự mà có thể bỏ qua một bước nhất định trong lịch sử để đạt tới một hình thái kinh tế. -Xã hội cao hơn. Đó là một quá trình lịch sử tự nhiên độc đáo.
Marx cho rằng quy luật tương thích của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật bao trùm chi phối mọi hình thái kinh tế – xã hội. Trong tác phẩm “Sự nghèo đói của triết học” (1847), Marx khẳng định: “Các quan hệ xã hội gắn liền với lực lượng sản xuất. Bằng cách có được lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, thay đổi phương thức sản xuất, phương thức sản xuất của mình”. kiếm sống, loài người thay đổi mọi quan hệ xã hội, cối xay quay tay tạo nên xã hội có lãnh chúa, cối xay chạy bằng hơi nước tạo ra xã hội có các nhà tư bản công nghiệp”.(2).
Khi một hình thái kinh tế – xã hội mới ra đời sẽ tạo khả năng giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất lên một tầm cao mới so với hình thái kinh tế – xã hội cũ, đồng thời xây dựng và ngày càng hoàn thiện quan hệ sản xuất. đầu ra mới phù hợp.
Lý thuyết của Marx về hình thái kinh tế – xã hội cũng vạch ra mối quan hệ hữu cơ của cơ sở hạ tầng với các yếu tố của kiến trúc thượng tầng; phân tích và chỉ ra rằng trong thời đại tư bản chủ nghĩa, “giai cấp tư sản không chỉ rèn ra vũ khí giết chết mình; Nó cũng tạo ra những người sử dụng những vũ khí đó để chống lại nó, đó là những người công nhân hiện đại, những người vô sản.”(3).
Cho đến nay, mặc dù những nguyên tắc lý luận mà Marx trình bày trong lý thuyết về hình thái kinh tế – xã hội chưa được chứng minh đầy đủ trên thực tế nhưng cũng không có cách giải thích nào khoa học hơn lý thuyết này của Marx. .
Hiện nay, một số nhà lý luận, chính trị gia tư sản chủ yếu dựa vào các sự kiện diễn ra vào cuối thế kỷ 20 ở Liên Xô và các nước Đông Âu để phủ nhận lý thuyết về hình thái kinh tế của Marx. XH. Họ truyền bá quan điểm cho rằng: Chủ nghĩa Mác là “một chiều, áp đặt”; “chỉ xem xét sự vật, hiện tượng từ góc độ phân đôi”; Lấy sự mâu thuẫn của các mặt đối lập làm động lực phát triển xã hội. Họ còn đưa ra những lập luận hết sức phản khoa học và phản động, cho rằng “khi mô hình xã hội chủ nghĩa sụp đổ thì lý thuyết cũng sụp đổ”.
Ở các nước tư bản có người đề cao học thuyết của Alvin Toffler (nhà tương lai học người Mỹ) về phát triển xã hội trên cơ sở ba nền văn minh: Nông nghiệp, công nghiệp và hậu công nghiệp. Lợi dụng sự khủng hoảng nghiêm trọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội tập trung tấn công, bác bỏ những luận điểm cá nhân trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội…
Phải khẳng định rằng mọi quan điểm, lập luận chống lại Marx đều có ý đồ xấu, nhằm bác bỏ học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội của Marx. Khi xây dựng học thuyết của mình, Marx đã tiến hành nghiên cứu và tổng kết khoa học rất công phu và nghiêm túc cả về lý luận lẫn thực tiễn. Ông vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên cứu lịch sử phát triển của loài người và khẳng định đó là một quá trình lịch sử tự nhiên; cho thấy thế giới là một thể thống nhất của các mặt đối lập, luôn vận động và phát triển trong không gian và thời gian. Học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội mới của Marx đưa ra những dự đoán và phương hướng phát triển đầu tiên của xã hội cộng sản tương lai, bởi ở thời đại của Marx, tiền đề vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản chưa xuất hiện.
Tuy nhiên, nhiều đảng cộng sản và công nhân quốc tế đã mắc phải chủ nghĩa giáo điều, chủ quan, cứng nhắc, nhất quán khi áp dụng chủ nghĩa Mác vào thực tiễn nước mình. Vì vậy, sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là hoàn toàn có thể giải thích được trên cơ sở khoa học và cách mạng, không thể coi là cuộc khủng hoảng của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. , càng không thể coi đây là bằng chứng cho sự sai lầm của học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội của Marx.
Hiện nay, nhân loại đang trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội thế giới. Với tinh thần khoa học, khách quan, chúng ta cần nghiên cứu, trao đổi để tiếp tục phát triển, vận dụng sáng tạo lý luận về hình thái kinh tế – xã hội của chủ nghĩa Mác nhằm xây dựng khát vọng và tầm nhìn phát triển của chủ nghĩa xã hội. thực tế ở nước ta.
Đại tá, Thạc sĩ NGUYỄN ĐỨC THẮNG
——–
(Đầu tiên). K.Marx và F.Engels: Tác phẩm hoàn chỉnh; Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia; Hà Nội, 2002; tập 23, tr.21
(2). K.Marx và F.Engels; như trên; tập 4, tr.187
(3). K.Marx và F.Engels; như trên; tập 4, tr.605