Báo cáo của Lauren Mai, Gregory B. Poling, và Japhet Quitzon |
Xuất bản Tháng Tám 19, 2024
Năm 2025, quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam sẽ đánh dấu hai ngày kỷ niệm quan trọng: 50 năm kể từ khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam và 30 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Những ngày kỷ niệm này phản ánh hành trình dài của Hoa Kỳ và Việt Nam hướng tới mối quan hệ song phương mạnh mẽ. Quan hệ hai nước đạt đỉnh cao mới vào tháng 9/2023 khi Tổng thống Joe Biden và cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nâng quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện – cao nhất trong kinh điển ngoại giao của Việt Nam. Điều này cho thấy rõ với mọi quan chức ở Việt Nam rằng lãnh đạo tập thể của đất nước ưu tiên mối quan hệ song phương. Điều tương tự cũng đúng với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vừa kết thúc của Việt Nam với Australia, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Không có lý do gì để nghĩ rằng bất kỳ nhà lãnh đạo tương lai nào ở Việt Nam sẽ tìm cách làm chậm đà phát triển trong các mối quan hệ ngày càng sâu sắc đó.
Hợp tác chiến lược trong bối cảnh chuyển đổi chính trị
Sự ra đi của ông Trọng vào ngày 19 tháng 7 sau hơn một thập kỷ cầm quyền đánh dấu một giai đoạn chuyển tiếp chính trị sẽ tiếp tục ít nhất cho đến Đại hội Đảng lần thứ 14 của Việt Nam, dự kiến vào năm 2026. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam, bất kể lãnh đạo của nó là gì, sẽ tiếp tục ưu tiên độc lập và cơ quan của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực lớn. Đây luôn là nền tảng của chiến lược Việt Nam. Điều đó có nghĩa là Hà Nội sẽ tiếp tục làm sâu sắc thêm mối quan hệ với Hoa Kỳ trong khi tìm kiếm mối quan hệ ổn định và hiệu quả với Bắc Kinh nếu có thể.
Năm 2015, ng Trọng trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên từng đến thăm Hoa Kỳ, gặp Tổng thống Barack Obama tại Nhà Trắng. Ông Tô Lâm, hiện vừa là Chủ tịch nước Việt Nam vừa là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, đã đến thăm Washington để gặp gỡ các đối tác Hoa Kỳ vào năm 2019, cũng như gần như mọi thủ tướng và chủ tịch nước Việt Nam trong những năm gần đây. Các quan chức Hoa Kỳ đã đáp lại sự chú ý đó, với mỗi tổng thống kể từ khi Bill Clinton đến thăm Hà Nội ít nhất một lần trong thời gian tại vị.
Trong chính quyền Trump, mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với sự gia tăng đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và nhấn mạnh vào hợp tác năng lượng. Năm 2019, hai nước đã ký biên bản ghi nhớ nhằm thiết lập quan hệ đối tác năng lượng toàn diện nhằm thúc đẩy hợp tác thị trường năng lượng. Dưới thời chính quyền Biden, Mỹ đã tăng gấp đôi cam kết với Việt Nam. Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đã đưa Việt Nam trở thành một phần trong chuyến công du đầu tiên tới khu vực vào tháng 7/2021, cùng với đồng minh Philippines và đối tác chiến lược Singapore. Một tháng sau, Kamala Harris trở thành phó tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm Việt Nam. Chuyến thăm đã tăng cường các cam kết an ninh và kinh tế song phương, đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Bà Harris trở lại Việt Nam vào tháng 11/2022 để gặp Tổng thống Nguyễn Xuân Phúc, tái khẳng định quan hệ an ninh, kinh tế song phương và thể hiện cam kết lớn hơn của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Vì vậy, cho dù Donald Trump hay Harris chiếm Nhà Trắng vào tháng Giêng năm 2025, Hoa Kỳ sẽ có một tổng thống đã thành thạo trong quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam.
Và bất kể có thay đổi gì ở cấp độ chính trị ở Washington và Hà Nội, hai nước sẽ tiếp tục chia sẻ quan điểm tương tự về an ninh khu vực và lo lắng về Trung Quốc. Điều đó đã, đang và sẽ vẫn là sự dằn vặt trong mối quan hệ an ninh của họ.
Việt Nam phải đối mặt với sự ép buộc hàng hải từ và chia sẻ biên giới trên bộ với Trung Quốc, mà các quan chức và công chúng rộng lớn hơn coi là mối đe dọa lâu dài. Việt Nam đã đẩy lùi một cuộc xâm lược của Trung Quốc qua biên giới đó vào năm 1979 và đã chiến đấu một loạt các cuộc giao tranh với Trung Quốc trong thập kỷ tiếp theo. Nó phải đối mặt với những thách thức vùng xám thường xuyên từ hải quân, cảnh sát biển và dân quân Trung Quốc, có thể leo thang bất cứ lúc nào. Trung Quốc duy trì gần 50 tiền đồn ở quần đảo Trường Sa để chống lại một cuộc xâm lược hoặc phong tỏa tiềm tàng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Mặc dù cần phải duy trì quan hệ với Trung Quốc, không có nhà lãnh đạo Việt Nam nào sẽ thỏa hiệp về chủ quyền, kể cả trong các tranh chấp ở Biển Đông. Và như mọi cuộc khảo sát có sẵn về dư luận và giới tinh hoa trong nước cho thấy, không có nơi nào trên trái đất sợ quyền bá chủ của Trung Quốc hơn Việt Nam. Đó là lý do tại sao các nhà lãnh đạo Việt Nam coi trọng mối quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ và các đồng minh như một đối trọng với mối quan hệ cần thiết của họ với Trung Quốc.
Sự hợp tác này nên được kỳ vọng sẽ sâu sắc hơn, nhưng sẽ vẫn còn những giới hạn về mức độ Hoa Kỳ và Việt Nam có thể làm cùng nhau trong ngắn hạn và họ sẽ liên kết bao nhiêu về các vấn đề chiến lược ngoài Trung Quốc. Ví dụ, Việt Nam duy trì quan hệ chặt chẽ với Nga, và Tổng thống Nga Vladimir Putin đã đến thăm Hà Nội vào tháng Sáu bất chấp sự phản đối của Washington. Việt Nam đã không lên án cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine và đã bỏ phiếu trắng trong tất cả các cuộc bỏ phiếu của Liên Hợp Quốc về vấn đề này. Điều này không có nghĩa là Hà Nội ủng hộ cuộc chiến của Nga; thật vậy, nó cho phép các phương tiện truyền thông nhà nước đưa tin công khai về cuộc chiến, và có sự đồng cảm đáng kể đối với sự nghiệp của Ukraine trong phần lớn công chúng Việt Nam. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam không thể xa lánh Nga mà không ảnh hưởng đến an ninh của chính mình. Hơn 80% thiết bị quân sự của Việt Nam là do Liên Xô hoặc Nga sản xuất.
Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine khiến nó trở thành một trách nhiệm chiến lược và Hà Nội biết điều đó. Do đó, họ đang đẩy nhanh việc đa dạng hóa mua sắm quân sự, bao gồm cả việc khám phá các thương vụ mua lại từ Mỹ và các đồng minh. Tuy nhiên, đó sẽ là một quá trình rất lâu dài. Trong thời gian tạm thời, Washington sẽ cần phải chấp nhận rằng Hà Nội không thể mạo hiểm sự sẵn sàng quân sự của chính mình bằng cách công khai lên án Moscow.
Cơ hội phát triển: Quan hệ đối tác kinh tế Hoa Kỳ-Việt Nam
Sự trỗi dậy kinh tế thần tốc của Việt Nam là một câu chuyện thành công đáng chú ý. Từ khi khởi động cải cách Đổi mới vào năm 1986, các xu hướng toàn cầu ngẫu nhiên và hoạch định chính sách lão luyện đã dẫn đến sự phát triển nhanh chóng. Trong gần 40 năm kể từ đó, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gấp 6 lần, từ 600 USD lên 3.700 USD. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 14% năm 2010 xuống còn 4,2% năm 2022. Tầng lớp trung lưu đang phát triển nhanh chóng, môi trường chính trị ổn định và sẵn sàng tham gia các hiệp định kinh tế, bao gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (một phiên bản trước đó mà Hoa Kỳ đã từ bỏ) và Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì Thịnh vượng (trong đó Hoa Kỳ là một thành viên), đã khiến Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn cho các công ty nước ngoài.
Quan hệ Kinh tế Hoa Kỳ-Việt Nam
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở thành đối tác kinh tế mạnh mẽ. Hai nước đã ký kết một hiệp định thương mại song phương vào năm 2001 khiến Hoa Kỳ trao cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc và ủng hộ việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Thương mại đã tăng lên rất nhiều trong hai thập kỷ kể từ đó. Thương mại hàng hóa và dịch vụ của Hoa Kỳ với Việt Nam lên tới 114,6 tỷ USD vào năm 2022, một bước nhảy vọt so với 2,9 tỷ USD vào năm 2002. Hoa Kỳ là điểm đến xuất khẩu lớn nhất của hàng hóa Việt Nam, từ dệt may đến giày dép và điện tử. Năm 2022, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đã cung cấp cho Việt Nam 142 triệu USD hỗ trợ phát triển chính thức, bao gồm thông qua các dự án giải quyết các di sản của Chiến tranh Việt Nam, như xử lý dioxin.
Vai trò ngày càng tăng của Việt Nam trong nền kinh tế khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương khiến Việt Nam trở thành một đối tác quan trọng đối với Hoa Kỳ. Chính quyền Biden đã coi cam kết với Việt Nam là ưu tiên hàng đầu trong khu vực. Hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư là những nguyên lý chính của quan hệ đối tác chiến lược toàn diện được ký kết vào tháng 9/2023: Chính phủ hai nước tái khẳng định cam kết tạo điều kiện kinh tế thuận lợi; tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa thị trường của mỗi nước cho nước kia, bao gồm cả việc giải quyết các rào cản gia nhập; và hỗ trợ các chính sách kinh tế và thương mại cùng có lợi khác. Việt Nam cũng đang hợp tác với Hoa Kỳ về sản xuất chất bán dẫn theo Quỹ Đổi mới và An ninh Công nghệ Quốc tế do Đạo luật CHIPS và Khoa học năm 2022 thành lập. Tuyên bố chung của ông Biden và ông Trọng thừa nhận yêu cầu của Việt Nam về việc xem xét lại tình trạng kinh tế thị trường. Ngày 2/8/2024, Bộ Thương mại xác định Việt Nam sẽ tiếp tục được xếp vào nhóm kinh tế phi thị trường.
Sản xuất chất bán dẫn và điện tử
Việt Nam thường được coi là một đối tác “friendhoring” khả thi của Hoa Kỳ và các đồng minh khi các doanh nghiệp tìm cách “giảm rủi ro” cho lĩnh vực công nghệ cao. Lực lượng lao động có trình độ học vấn cao và môi trường chính trị ổn định đã làm cho nó trở thành một lựa chọn hấp dẫn cho các công ty quan tâm đến việc di dời khỏi Trung Quốc. Việt Nam tham gia vào 16 hiệp định thương mại tự do, nhiều hơn các nước láng giềng, và cung cấp các khoản giảm thuế và miễn thuế cho các dự án công nghệ cao. Nó tự hào có chi phí lao động thấp và duy trì một đầu ra ổn định của sinh viên lành nghề. Chương trình Đối tác Cải cách Giáo dục Đại học của USAID đã cung cấp 14,2 triệu USD để thúc đẩy giảng dạy, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo tại ba trường đại học quốc gia lớn nhất Việt Nam. Hơn nữa, Mỹ đã cam kết 2 triệu USD cho một sáng kiến chung giữa hai nước để phát triển lực lượng lao động bán dẫn. Điều này phù hợp chặt chẽ với mục tiêu của Việt Nam là mở rộng lực lượng lao động bán dẫn gấp 10 lần lên 50.000 kỹ sư vào năm 2030.
Thị trường bán dẫn của Việt Nam đã tăng trưởng 7,1% mỗi năm trong giai đoạn 2016-2021 và được định giá 18,2 tỷ USD vào năm 2022. Việt Nam chuyên về quy trình lắp ráp, thử nghiệm và đóng gói (ATP). Đến tháng 2/2023, xuất khẩu chip bán dẫn của nước này sang Mỹ đạt 562 triệu USD, so với 321,7 triệu USD vào năm 2022. Việt Nam đã trở thành nhà xuất khẩu chip bán dẫn lớn thứ ba châu Á sang Mỹ. Vào tháng 4/2023, nó chiếm hơn 10% chip bán dẫn được Mỹ nhập khẩu trong bảy tháng liên tiếp.
Intel, nhà sản xuất chất bán dẫn hàng đầu thế giới, bắt đầu hoạt động tại Việt Nam vào năm 2006. Nhà máy ATP của công ty tại thành phố Hồ Chí Minh là nhà máy lớn nhất trong mạng lưới sản xuất. Amkor Technology, nhà cung cấp dịch vụ đóng gói và thử nghiệm, đã đầu tư 1,6 tỷ USD vào một nhà máy mới ở Bắc Ninh vào năm 2023. Các công ty bán dẫn của Mỹ như Intel, Marvell và GlobalFoundries đã tham gia một phái đoàn kinh doanh cùng với chuyến thăm Việt Nam của ông Biden vào tháng 9/2023.
Việt Nam cũng đã trở thành một điểm đến quan trọng cho các nhà sản xuất điện tử đang tìm cách đa dạng hóa và đảm bảo chuỗi cung ứng của họ. Apple đã liên tục chuyển dịch sản xuất sang Việt Nam, đầu tư 15,8 tỷ USD vào Việt Nam kể từ năm 2019. Nó hiện đang vận hành 28 nhà máy tại Việt Nam, chủ yếu ở các tỉnh phía bắc của đất nước. Việt Nam lắp ráp nhiều loại sản phẩm của Apple và dự kiến sẽ chịu trách nhiệm cho tỷ lệ ngày càng tăng của tất cả các sản phẩm của Apple vào năm 2025: 20% tổng số iPad và Apple Watch, 5% MacBook và 65% tổng số AirPods.
Năng lượng tái tạo
Việt Nam cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại Hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021. Về mặt địa lý, nó có vị trí rất tốt để đạt được mục tiêu này: Đất nước sở hữu tiềm năng to lớn về năng lượng tái tạo. Từ năm 2018 đến năm 2022, sản lượng năng lượng tái tạo đã tăng gấp bốn mươi lần. Việt Nam phải phát triển hơn nữa lưới điện sạch để duy trì và phát triển năng lực sản xuất.
Năm 2022, Việt Nam đã ký Hiệp định Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Công bằng (JETP) với Hoa Kỳ và các quốc gia tài trợ khác, sẽ cung cấp 15,5 tỷ USD tài chính công và tư để hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng sạch của đất nước. Kế hoạch huy động nguồn lực JETP của Việt Nam nhằm tạo ra cả khung pháp lý và cơ sở hạ tầng cho quá trình chuyển đổi năng lượng, đồng thời nỗ lực giảm phát thải và cải thiện hệ thống truyền tải điện và lưu trữ năng lượng. USAID hợp tác với Việt Nam trong một loạt các dự án nhằm giảm phát thải và khuyến khích đầu tư vào cơ sở hạ tầng và năng lượng. Với khoản tài trợ 36,2 triệu USD từ năm 2020 đến năm 2025, Chương trình Năng lượng phát thải thấp Việt Nam của USAID đặt mục tiêu hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng sạch của Việt Nam. Trong khi đó, chương trình An ninh năng lượng đô thị Việt Nam trị giá 13,9 triệu USD hợp tác với chính phủ Việt Nam để xác định các giải pháp năng lượng sạch cho các thách thức về năng lượng đô thị.
Với sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam vào tháng Bảy Nghị định 80 về Hợp đồng mua bán điện trực tiếp, việc bán trực tiếp năng lượng tái tạo cho khách hàng thông qua các đường dây truyền tải tư nhân và lưới điện quốc gia hiện có thể thực hiện được. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ có thể mua năng lượng tái tạo từ các nhà sản xuất tư nhân thay vì dựa vào Điện lực Việt Nam để cung cấp năng lượng. Vào tháng Giêng, 15 công ty Hoa Kỳ đã bày tỏ sự quan tâm đến việc đầu tư 8 tỷ đô la vào cơ sở hạ tầng năng lượng sạch của Việt Nam tùy thuộc vào việc áp dụng quy tắc như vậy. Việc phê duyệt Nghị định 80 và việc bãi bỏ quy định tiếp theo của quy trình mua năng lượng tái tạo có thể chứng minh là hấp dẫn đối với nhiều đối tác nước ngoài đang tìm cách thành lập cửa hàng tại Việt Nam.
Khoáng sản quan trọng
Trữ lượng khoáng sản quan trọng của Việt Nam cũng có thể chứng minh sự quan trọng đối với sự gia tăng của nó trong chuỗi cung ứng toàn cầu có giá trị cao. Khoáng sản đất hiếm rất quan trọng đối với việc sản xuất các thiết bị hiện đại, từ pin xe điện đến màn hình điện thoại thông minh. Việt Nam có trữ lượng khoáng sản đất hiếm lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc. Tìm kiếm cơ hội trong bối cảnh định hướng lại chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam đang tăng cường khai thác đất hiếm theo cấp số nhân. Năm 2022, nước này đã sản xuất 4.300 tấn khoáng sản này so với chỉ 400 tấn vào năm 2021. Nước này đặt mục tiêu xử lý 2 triệu tấn quặng đất hiếm và 60.000 tấn oxit đất hiếm vào năm 2030. Dưới sự bảo trợ của Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam, hai nước đã ký thỏa thuận tăng cường hợp tác kỹ thuật để giúp Việt Nam cải thiện ngành công nghiệp đất hiếm và thu hút đầu tư.
Thách thức
Mặc dù Việt Nam đã nhận được sự quan tâm và đầu tư quốc tế đáng kể, nhưng Việt Nam phải đối mặt với những thách thức đáng kể. Những hạn chế về cơ sở hạ tầng đang khiến nhiều nhà đầu tư quan tâm tạm dừng, đặc biệt là khi nói đến sự sẵn có của nước sạch và năng lượng – sự thiếu hụt sau này dẫn đến mất điện bất ngờ ảnh hưởng đến nhiều hoạt động sản xuất nước ngoài vào năm 2023. Chính quyền trung ương và địa phương nhận thức rõ sự cần thiết phải nâng cấp cơ sở hạ tầng lớn nhưng đã chậm phê duyệt và phân tán vốn cho các dự án lớn vì chiến dịch chống tham nhũng đang diễn ra. Từ năm 2021 đến đầu năm 2023, chính phủ Việt Nam đã mở cuộc điều tra hình sự đối với 7.500 cá nhân và truy tố hơn 4.400 người về tội tham nhũng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kỷ luật hàng chục ngàn người, bao gồm các quan chức cấp cao và tám thành viên của Bộ Chính trị, cơ quan ra quyết định hàng đầu của đất nước. Từ đầu năm 2023 đến giữa năm 2024, hai Chủ tịch Quốc hội và Ủy viên thường trực Ban Thư ký (quan chức cao cấp thứ năm) đã bị cách chức. Quy mô của chiến dịch chống tham nhũng đã tạo ra sự tê liệt quan liêu, với các quan chức do dự trong việc đưa ra bất kỳ quyết định táo bạo nào hoặc phê duyệt các dự án lớn vì sợ bị truy tố trong tương lai. Do đó, nhiều nhà đầu tư đang áp dụng cách tiếp cận chờ xem cho đến khi họ có thể đánh giá tốt hơn tương lai của các khoản đầu tư của mình.
Cái chết của ông Trọng có thể dẫn đến việc kết thúc chậm chạp chiến dịch chống tham nhũng, trước hoặc sau Đại hội Đảng toàn quốc năm 2026, nhưng điều đó không rõ ràng. Các vụ bắt giữ cấp cao có thể sẽ tiếp tục trong một thời gian, nếu chỉ vì các trường hợp đã được điều tra. Chẳng hạn, vào ngày 22 tháng Bảy, cảnh sát đã bắt giữ năm quan chức cấp cao, trong đó có một cựu thứ trưởng môi trường, vì vi phạm các quy định khai thác mỏ. Bất cứ nơi nào chiến dịch chống tham nhũng diễn ra, bầu không khí thận trọng quan liêu sẽ không giảm bớt trong một sớm một chiều, do đó, việc giải ngân chậm các quỹ của chính phủ và thiếu hụt cơ sở hạ tầng sẽ tiếp tục cản trở tăng trưởng trong một thời gian.
Hơn nữa, tiềm năng cho một chính quyền Trump thứ hai ở Hoa Kỳ có thể làm phức tạp tiến bộ trong tương lai trong hợp tác kinh tế Hoa Kỳ-Việt Nam. Chính quyền Trump có thể sẽ phàn nàn một lần nữa về thâm hụt thương mại ngày càng tăng của Mỹ và có thể tìm cách giải quyết nó thông qua các biện pháp trừng phạt, như lần đầu tiên họ đã làm với các cuộc điều tra về cáo buộc thao túng tiền tệ và các hoạt động thương mại không công bằng. Với lợi ích thương mại khổng lồ của Hoa Kỳ tại Việt Nam, một chính quyền Trump thứ hai sẽ không thể đảo ngược xu hướng hợp tác kinh tế ngày càng tăng, nhưng chắc chắn nó có thể làm chậm đà phát triển của những năm gần đây. Bất chấp những thách thức này, Việt Nam có thể sẽ tiếp tục tăng trưởng GDP bền vững trong ba năm tới.
Ngoài chiến tranh: Làm sâu sắc thêm tình hữu nghị giữa Hoa Kỳ và Việt Nam
Với những ngày kỷ niệm kết thúc Chiến tranh Việt Nam và bình thường hóa ngoại giao sắp diễn ra, và quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng cường nỗ lực để củng cố quan hệ nhân dân. Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam cần bao gồm nỗ lực gấp đôi để giải quyết các di sản lịch sử, làm sâu sắc thêm mối liên kết giữa Việt Nam và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, và mở rộng trao đổi giáo dục. Cả ba loại này đều rất quan trọng trong việc tăng cường quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam, tạo cơ hội cho người dân từ cả hai nước không chỉ hiểu nhau mà còn cả lịch sử phức tạp của chiến tranh và hòa giải giữa họ.
Di sản lịch sử
Hoa Kỳ và Việt Nam đã ưu tiên giải quyết các di sản của chiến tranh. Tháng 4/2023, USAID công bố hợp tác với Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (WRM) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Quan hệ đối tác liên quan đến việc thêm một cuộc triển lãm vào WRM để giới thiệu những nỗ lực của cả hai nước để khắc phục hậu quả của Chiến tranh Việt Nam. Triển lãm lịch sử này đánh dấu lần đầu tiên chính phủ Hoa Kỳ có lợi ích trực tiếp trong việc tưởng niệm chiến tranh ở Việt Nam như thế nào. WRM trước đây đã phải đối mặt với nhiều lời chỉ trích vì thiếu một quan điểm cân bằng, miêu tả binh lính Mỹ là tội phạm trong khi phớt lờ sự tàn bạo của các lực lượng Bắc Việt Nam. Triển lãm hợp tác mới thể hiện cam kết chung của Hoa Kỳ và Việt Nam trong việc giải quyết các di sản chiến tranh dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau và sự thừa nhận trung thực về lịch sử. Triển lãm dự kiến sẽ khai mạc vào năm 2025, đúng dịp kỷ niệm của cả hai năm.
Mặc dù cam kết mạnh mẽ, Hoa Kỳ vẫn còn nhiều việc phải làm để giải quyết các di sản của Chiến tranh Việt Nam. Tính đến năm 2022, hài cốt của 1.244 quân nhân Mỹ thiệt mạng hoặc mất tích trong chiến đấu vẫn chưa được tìm thấy, với 470 người trong số đó được tuyên bố là “không thể phục hồi”. Tiến độ phục hồi hài cốt đã chậm lại, do những rào cản về hậu cần và khoa học liên quan. Năm 2023, chỉ có bốn hài cốt quân nhân được tìm thấy thành công.
Năm 2021, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Austin và Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang đã ký một biên bản ghi nhớ, trong đó Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ Việt Nam trong việc xác định vị trí, xác định và tìm kiếm những người chết trong chiến tranh của lực lượng Việt Nam. Bộ Quốc phòng dự định thực hiện các nỗ lực tái định cư bằng cách hợp tác với Viện Hòa bình Hoa Kỳ, USAID, các tổ chức học thuật Hoa Kỳ và Văn phòng Tùy viên Quốc phòng tại Hà Nội. Trong khi các kế hoạch thực hiện chi tiết chưa được thiết lập, Hoa Kỳ dự định nhắm mục tiêu vào các lĩnh vực sau đây để hỗ trợ các nỗ lực kế toán của Việt Nam: nghiên cứu lưu trữ; số hóa tài liệu; nâng cao năng lực kế toán công nghệ; tiếp cận truyền thông; trao đổi giữa các cựu chiến binh, học viện, các nhà hoạch định chính sách, những người có trình độ kỹ thuật và công tác; và hỗ trợ phân tích DNA.
Bất chấp những nỗ lực phục hồi của cả lực lượng Hoa Kỳ và Việt Nam, những tổn thất về sinh mạng liên kết với Việt Nam Cộng hòa cũ (VNCH hay Nam Việt Nam) vẫn chưa được chính thức công nhận hoặc giải quyết. Trong khi những nỗ lực tưởng niệm và phục hồi chiến tranh của họ cho đến nay là đáng khen ngợi, Hoa Kỳ và Việt Nam phải bao gồm các lực lượng Việt Nam Cộng hòa trong những nỗ lực này để hòa giải cộng đồng người Mỹ gốc Việt, một bước quan trọng trong việc tăng cường quan hệ song phương.
Hoa Kỳ cũng tiếp tục hợp tác với Việt Nam để rà phá bom mìn chưa nổ (UXO) và khắc phục đất bị nhiễm chất độc da cam, một loại thuốc diệt cỏ được sử dụng trong chiến tranh có chứa hàm lượng cao chất dioxin hóa học chết người. USAID đã hoàn thành dự án kéo dài nhiều năm để xử lý đất tại sân bay Đà Nẵng; dự án đã được khởi động dưới thời chính quyền Obama, và cơ quan này hiện đang làm việc để làm sạch Biên Hòa, một căn cứ không quân cũ của Hoa Kỳ có nồng độ chất độc da cam cao. Vào tháng 12/2022, USAID đã trao hợp đồng phát triển cơ sở xử lý hơn 100.000 mét khối đất bị ô nhiễm tại cơ sở. Dự án dự kiến trị giá 450 triệu USD và hoàn thành vào năm 2030.
Trong khi các nỗ lực khắc phục môi trường đang đạt được tiến bộ đáng kể, cần phải làm nhiều hơn nữa để điều trị cho các nạn nhân phơi nhiễm chất độc da cam. Chính phủ Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ chăm sóc và bồi thường cho các cựu chiến binh Hoa Kỳ bị phơi nhiễm trong chiến tranh, nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa với sự hợp tác của Hà Nội để điều trị cho các nạn nhân Việt Nam. Chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam không đồng ý về việc ai đủ điều kiện bị ảnh hưởng bởi phơi nhiễm chất độc da cam. Đạt được một thỏa thuận như vậy và tăng cường hỗ trợ cho các nạn nhân phù hợp sẽ đánh dấu một bước quan trọng trong việc hòa giải.
Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực rà phá bom mìn tại Việt Nam, đầu tư hơn 206 triệu USD tính đến năm 2022 và rà phá 5.979 quả mìn và vật liệu nổ khỏi diện tích đất 1.247.425 mét vuông (308 mẫu Anh) tính đến tháng 7/2021. Năm 2022, Bộ Ngoại giao đã khởi xướng hỗ trợ công nghệ cho Trung tâm Hành động bom mìn quốc gia Việt Nam và hai trung tâm hành động bom mìn cấp tỉnh để phát triển khả năng thực hiện rà phá bom mìn tại Việt Nam một cách độc lập. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã hỗ trợ giáo dục về nguy cơ bom mìn tại các trường tiểu học và trung học ở các tỉnh bị ảnh hưởng của Việt Nam, bao gồm Đà Nẵng, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Loại bỏ tất cả bom mìn ra khỏi chiến tranh là một kỳ công khó khăn, với hàng triệu quả mìn vẫn chưa bị phát hiện. Chính phủ Việt Nam suy đoán rằng, tính đến năm 2022, mìn và vật liệu nổ đã gây ra hơn 40.000 người chết và 60.000 người bị thương kể từ khi chiến tranh kết thúc. Một tổ chức phi chính phủ (NGO) đáng chú ý giải quyết thách thức này là Dự án RENEW, một quan hệ đối tác được thành lập vào năm 2001 giữa chính quyền tỉnh Quảng Trị và các tổ chức phi chính phủ quốc tế. Trong hơn 20 năm, RENEW đã loại bỏ thành công 815.952 chất nổ khỏi Việt Nam, chưa bằng một nửa so với ước tính còn lại. Mặc dù không thể loại bỏ tất cả vật liệu nổ, nhưng những nỗ lực liên tục là rất quan trọng trong việc giảm rủi ro an toàn trên khắp Việt Nam.
Cộng đồng người Việt hải ngoại
Sự kết thúc của Chiến tranh Việt Nam đã kích hoạt một cuộc di cư quy mô lớn của công dân Việt Nam sang Hoa Kỳ. Vào cuối cuộc chiến năm 1975, Hoa Kỳ đã sơ tán khoảng 125.000 công dân Việt Nam, nhiều người trong số họ có quan hệ với quân đội Hoa Kỳ và có nguy cơ bị chính phủ Cộng sản chiến thắng đàn áp. Cuộc di tản đánh dấu làn sóng đầu tiên của người tị nạn Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ. Một làn sóng thứ hai bắt đầu vào năm 1978 và kéo dài đến những năm 1980, khi nhiều người Việt Nam chạy trốn bằng thuyền đến các quốc gia Đông Nam Á láng giềng và cuối cùng được tái định cư ở các nước thứ ba. Ngày nay, khoảng 1,3 triệu người nhập cư Việt Nam cư trú tại Hoa Kỳ, và tổng dân số người Mỹ gốc Việt là hơn 2 triệu người.
Người Mỹ gốc Việt đóng một vai trò quan trọng trong quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Hầu hết người Mỹ gốc Việt thế hệ thứ hai chưa bao giờ đến Việt Nam và nhiều người nhập cư Việt Nam và con cái của họ vẫn nhiệt thành chống cộng. Vai trò của cộng đồng trong mối quan hệ sâu sắc hơn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã bị mâu thuẫn, với nhiều người Mỹ gốc Việt háo hức tạo dựng các mối quan hệ văn hóa và thương mại mới, nhưng những người khác vận động chính phủ Hoa Kỳ áp dụng một lập trường phê phán hơn đối với Hà Nội.
Về phần mình, chính phủ Việt Nam gọi người Mỹ gốc Việt là Việt Kiều, hay “Việt kiều”. Sau chiến tranh, thuật ngữ này ban đầu được coi là xúc phạm. Nhưng mối quan hệ của Việt Nam với cộng đồng hải ngoại đã phát triển kể từ khi bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Hà Nội đã làm việc để nắm lấy cộng đồng người Mỹ gốc Việt, xác định đó là nguồn cảm hứng cho người Việt Nam ở nhà. Sự mất kết nối văn hóa và chính trị mà nhiều người Mỹ gốc Việt cảm thấy đối với Hà Nội sẽ không sớm biến mất, nhưng nó đang dần bị thu hẹp. Để tiếp tục các nỗ lực hòa giải, chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam cần tiếp tục hỗ trợ các chương trình cho phép người Mỹ gốc Việt trở về Việt Nam để trao đổi văn hóa và giáo dục. Nhưng họ cũng phải thừa nhận và giải quyết những tổn thương mà người Việt Nam phải chịu ở cả hai phía của cuộc chiến.
Trao đổi giáo dục
Khoảng 30.000 sinh viên Việt Nam hiện đang học tập tại Hoa Kỳ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác ở Đông Nam Á. Chính phủ Hoa Kỳ đang khuyến khích các cơ sở giáo dục chấp nhận nhiều sinh viên Việt Nam hơn trong những năm tới. Việt Nam cũng hoan nghênh các trường đại học Hoa Kỳ phát triển quan hệ đối tác với các tổ chức Việt Nam và thậm chí mở các cơ sở tại Việt Nam. Đại học Arizona đáng chú ý cung cấp một chương trình hợp tác với Đại học Luật Hà Nội (HLU) để lấy cả bằng cử nhân luật từ HLU và bằng cử nhân luật từ Arizona chỉ trong bốn năm. Trong khi đó, Đại học Troy hiện đang hợp tác với Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Công nghệ Sài Gòn để cung cấp nhiều chương trình đại học tại Việt Nam.
Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF) của Hoa Kỳ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sớm bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam thông qua trao đổi giáo dục. Được Quốc hội thành lập vào năm 1999, VEF là một chương trình trao đổi giáo dục hàng đầu được tạo ra để nâng cao năng lực khoa học và công nghệ của Việt Nam. VEF, hoạt động tại Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2016, cho phép các học giả Việt Nam có thành tích học tập tại Hoa Kỳ. Trong quá trình hoạt động, VEF đã đưa 600 công dân Việt Nam theo học cao học tại Hoa Kỳ và hơn 40 giáo sư Hoa Kỳ từ các trường đại học Hoa Kỳ đến giảng dạy tại các trường đại học Việt Nam. Những bước đi đầu tiên của VEF hướng tới bình thường hóa trao đổi giáo dục đã truyền cảm hứng cho các chương trình mới nổi như Chương trình Fulbright tiếp tục khuyến khích trao đổi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, với hai chương trình phát triển mối quan hệ hợp tác mạnh mẽ cho đến khi VEF chính thức đóng cửa vào năm 2018.
Hoa Kỳ, thông qua Chương trình Fulbright, mang đến cho các chuyên gia Hoa Kỳ cơ hội học tập, giảng dạy hoặc nghiên cứu tại Việt Nam trong khi tìm hiểu về ngôn ngữ và văn hóa của Việt Nam. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright xuất phát từ sự hợp tác năm 1994 giữa Chương trình Việt Nam của Đại học Harvard và Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình hiện là một phần của Đại học Fulbright Việt Nam, trường đại học phi lợi nhuận độc lập đầu tiên của Việt Nam. Đại học Fulbright Việt Nam đã được khen ngợi trong lễ công bố quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam vì “vai trò ngày càng tăng như một trung tâm khu vực về đào tạo chính sách công”, cũng như công nhận tầm quan trọng của việc đầu tư vào nguồn nhân lực “như một nguồn lực quan trọng cho sự thịnh vượng, an ninh, ổn định và phát triển trong tương lai”.
Năm 2022, Tổ chức Hòa bình đã cử đoàn tình nguyện viên đầu tiên đến Hà Nội sau 18 năm đàm phán giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Tổ chức Hòa bình đã đấu tranh cho “hòa bình và hữu nghị thế giới thông qua phát triển dựa vào cộng đồng và hiểu biết liên văn hóa” từ năm 1961. Được thành lập trên trường quốc tế và là một dấu ấn cho mối quan hệ song phương mạnh mẽ, việc thành lập Peace Corps tại Việt Nam đánh dấu một chiến thắng lịch sử cho quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Hoa Kỳ và Việt Nam đã đàm phán thỏa thuận song phương cho Tổ chức Hòa bình từ năm 2004, ký một thỏa thuận chính thức vào năm 2016 dưới thời chính quyền Obama. Các thỏa thuận thực hiện đã được hoàn tất vào đầu năm 2021, chính thức tuyển dụng nhân viên vào cuối năm đó. Với chương trình Việt Nam của Tổ chức Hòa bình được thiết lập, Hoa Kỳ mang đến cho công dân của mình nhiều cơ hội hơn để tham gia vào các cơ hội trao đổi văn hóa và giáo dục, đây là những bước quan trọng hướng tới việc làm sâu sắc thêm sự hiểu biết lẫn nhau giữa cả hai quốc gia.
Một tương lai tươi sáng cho quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam
Mối quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ mới bắt đầu thịnh vượng. Mở rộng quan hệ giữa chính phủ với chính phủ đã tạo ra mối liên kết thể chế sâu sắc hơn giữa hai nước. Tình hữu nghị song phương của họ sẽ có thể chịu đựng những thay đổi trong chính quyền ở mỗi nước, bất kể môi trường chính trị trong nước tương ứng của họ. Sự tham gia kinh tế tại Việt Nam đang tăng trưởng đều đặn trong bối cảnh các công ty phương Tây giảm rủi ro từ Trung Quốc. Trong lĩnh vực sản xuất chất bán dẫn, lĩnh vực năng lượng tái tạo và lĩnh vực khoáng sản quan trọng, trong số những lĩnh vực khác, có những cơ hội đáng kể cho quan hệ đối tác kinh tế Hoa Kỳ-Việt Nam.
Trong khi đó, Hoa Kỳ và Việt Nam tiếp tục tha thiết thừa nhận di sản chiến tranh lịch sử của họ, mở đường cho sự hiểu biết lẫn nhau cuối cùng giữa hai quốc gia. Mối quan hệ song phương được tăng cường của họ mở ra cơ hội giáo dục cho người dân hai nước, bao gồm cả người Mỹ gốc Việt, đóng một vai trò trong tình hữu nghị phức tạp và sâu sắc của Hoa Kỳ và Việt Nam. Và với những ngày kỷ niệm quan trọng của cả việc kết thúc Chiến tranh Việt Nam và bình thường hóa ngoại giao đang đến gần, Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ chỉ làm việc để tiếp tục đà phát triển trong mối quan hệ đang phát triển của họ.
Lauren Mai là điều phối viên chương trình và trợ lý nghiên cứu của Chương trình Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, D.C. Gregory B. Poling là thành viên cao cấp và giám đốc Chương trình Đông Nam Á và Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á tại CSIS. Japhet Quitzon là cộng tác viên nghiên cứu của Chương trình Đông Nam Á tại CSIS.
Trong suốt dự án này, các học giả CSIS đã nhận được sự hỗ trợ và đóng góp ý kiến từ nhiều chuyên gia Hoa Kỳ và Việt Nam về Đông Nam Á. Chương trình Đông Nam Á cảm ơn họ vì lời khuyên của họ. Các tác giả cũng xin cảm ơn Giang Phạm và Amelie De Leon vì sự hỗ trợ của họ trong việc sản xuất sách trắng này.
Báo cáo này được thực hiện với sự hỗ trợ của Energy Capital Vietnam và Quỹ Nghiên cứu và Giáo dục Việt Mỹ, Inc.
Historical Legacies
Despite its strong commitment, the United States still has work to do to address the legacies of the Vietnam War. As of 2022, the remains of 1,244 U.S. service members killed or missing in action were still not accounted for, with 470 of those declared “non-recoverable.” Progress toward recovering remains has slowed, given the logistical and scientific hurdles involved. In 2023, only four service members’ remains were successfully recovered.
In 2021, Austin, the U.S. defense secretary, and Vietnamese defense minister Phan Van Giang inked a memorandum of understanding in which the United States committed to assist Vietnam in locating, identifying, and recovering the war dead of Vietnamese forces. The Department of Defense intends to home in on relocation efforts by partnering with the United States Institute of Peace, USAID, U.S. academic institutions, and the Office of Defense Attache in Hanoi. While detailed implementation plans have not yet been established, the United States intends to target the following areas to aid in Vietnamese accounting efforts: archival research; digitization of documents; building technological accounting capacity; media outreach; exchanges between veterans, academia, policymakers, and technical and working-level people; and DNA analysis assistance.
Despite the recovery efforts of both U.S. and Vietnamese forces at play, the loss of lives affiliated with the former Republic of Vietnam (RVN or South Vietnam) has still not been officially recognized or addressed. While their war memorialization and recovery efforts thus far are commendable, the United States and Vietnam must include the RVN forces in these efforts to reconcile the Vietnamese-American community, a critical step in strengthening bilateral ties.
The United States also continues to work with Vietnam to remove unexploded ordnance (UXO) and remediate soil contaminated by Agent Orange, an herbicide used during the war containing high levels of the deadly chemical dioxin. USAID completed a multiyear project to remediate soil at Da Nang airport; the project was launched during the Obama administration, and the agency is currently working to clean up Bien Hoa, a former U.S. air base containing high concentrations of Agent Orange. In December 2022, USAID awarded a contract to develop a facility to treat more than 100,000 cubic meters of contaminated soil at the base. The project is expected to cost $450 million and be completed in 2030.
While the environmental remediation efforts are making considerable progress, more should be done to treat the victims of Agent Orange exposure. The U.S. government provides care and compensation for U.S. veterans exposed during the war, but more should be done in cooperation with Hanoi to treat Vietnamese victims. The U.S. and Vietnamese governments do not agree on who qualifies as being affected by Agent Orange exposure. Reaching such an agreement and increasing support to victims accordingly would mark an important step in reconciliation.
The United States continues to support demining efforts in Vietnam, investing over $206 million as of 2022 and removing 5,979 mines and UXO from 1,247,425 square meters (308 acres) of land as of July 2021. In 2022, the Department of State initiated technological support to the Vietnam National Mine Action Center and two provincial mine action centers to develop the ability to carry out demining in Vietnam independently. The Department of State has also supported education on UXO risk in primary and secondary schools in affected Vietnamese provinces, including Da Nang, Quang Binh, Quang Nam, Quang Tri, and Thua Thien Hue. Removal of all UXO from the war is a difficult feat, with millions of mines remaining undetected. The Vietnamese government speculates that, as of 2022, mines and UXO have caused over 40,000 deaths and 60,000 injuries since the war’s end. A notable nongovernmental organization (NGO) tackling this challenge is Project RENEW, a partnership established in 2001 between the Quang Tri Province government and international NGOs. Over 20 years, RENEW has successfully removed 815,952 explosives from Vietnam, less than half of what is estimated to remain. While it is impossible to remove all UXO, continued efforts are critical in decreasing safety risks throughout Vietnam.
The Vietnamese Diaspora
The end of the Vietnam War triggered a large-scale migration of Vietnamese nationals to the United States. At the end of the war in 1975, the United States evacuated around 125,000 Vietnamese nationals, many of whom had ties to the U.S. military and risked persecution by the victorious Communist government. The evacuation marked the first wave of Vietnamese refugees immigrating to the United States. A second wave began in 1978 and lasted into the 1980s, as many Vietnamese fled by boat to neighboring Southeast Asian states and were eventually resettled in third countries. Today, around 1.3 million Vietnamese immigrants reside in the United States, and the Vietnamese-American population totals more than 2 million.
Vietnamese Americans play an important role in U.S.-Vietnam relations. Most second-generation Vietnamese Americans have never been to Vietnam and many Vietnamese immigrants and their children remain fervently anti-communist. The community’s role in the deepening U.S.-Vietnam relationship has been conflicted, with many Vietnamese Americans eagerly forging new cultural and commercial ties, but others lobbying the U.S. government to adopt a more critical stance toward Hanoi.
For its part, the Vietnamese government refers to Vietnamese Americans as Viet Kieu, or “overseas Vietnamese.” After the war, the term was initially considered derogatory. But Vietnam’s relationship with the diaspora has evolved since the normalization of U.S.-Vietnam relations. Hanoi has worked to embrace the Vietnamese-American community, identifying it as a source of inspiration for Vietnamese at home. The cultural and political disconnect many Vietnamese Americans feel toward Hanoi will not disappear any time soon, but it is steadily shrinking. To further reconciliation efforts, the U.S. and Vietnamese governments should continue to support programs that allow Vietnamese Americans to return to Vietnam for cultural and educational exchanges. But they must also acknowledge and address the trauma suffered by Vietnamese on both sides of the war.
Educational Exchanges
About 30,000 Vietnamese students currently study in the United States, more than from any other country in Southeast Asia. The U.S. government is encouraging educational institutions to accept more Vietnamese students over the coming years. Vietnam has also welcomed U.S. universities to develop partnerships with Vietnamese institutions and even open campuses in Vietnam. The University of Arizona notably offers a collaborative program with Hanoi Law University (HLU) to earn both a bachelor of laws degree from HLU and a bachelor of arts in law degree from Arizona in only four years. Meanwhile, Troy University is currently partnered with Vietnam National University, Hanoi University of Science and Technology, and Saigon Technology University to offer a variety of undergraduate programs in Vietnam.
The United States’ Vietnam Education Foundation (VEF) played an instrumental role in the early normalization of U.S.-Vietnam relations via educational exchanges. Established by Congress in 1999, the VEF was a flagship education exchange program created to advance Vietnamese science and technology capacities. The VEF, which operated in Vietnam from 2003 to 2016, allowed Vietnamese scholars of academic merit to study in the United States. Over its run, the VEF brought in 600 Vietnamese nationals to pursue graduate degrees in the United States and over 40 U.S. professors from U.S. universities to teach at Vietnamese universities. The VEF’s foundational first steps toward normalizing educational exchanges inspired emerging programs such as the Fulbright Program to continue encouraging exchanges between the United States and Vietnam, with the two programs developing a strong working relationship until the VEF officially closed its doors in 2018.
The United States, through the Fulbright Program, gives U.S. professionals an opportunity to study, teach, or research in Vietnam while learning about Vietnam’s language and culture. The Fulbright Economics Teaching Program emerged out of a 1994 partnership between Harvard University’s Vietnam Program and University of Economics Ho Chi Minh City. The program is now part of Fulbright University Vietnam, Vietnam’s first independent nonprofit university. Fulbright University Vietnam was commended in the announcement of the U.S.-Vietnam Comprehensive Strategic Partnership for its “growing role as a regional hub for public policy training,” as well as for its recognition of the importance of investing in human capital “as a critical resource for future prosperity, security, stability, and development.”
In 2022, the Peace Corps sent its first delegation of volunteers to Hanoi after 18 years of negotiations between the United States and Vietnam. The Peace Corps has championed “world peace and friendship through community-based development and intercultural understanding” since 1961. Internationally established and a hallmark for strong bilateral relations, the Peace Corps’ establishment in Vietnam marks a historic win for U.S.-Vietnam relations. The United States and Vietnam had been negotiating the bilateral agreement for the Peace Corps since 2004, inking a formal agreement in 2016 during the Obama administration. Implementation agreements were finalized in early 2021, formally recruiting staff later that year. With the Peace Corps’ Vietnam program established, the United States gives its citizens more opportunities to engage in both cultural and educational exchange opportunities, which are critical steps toward deepening mutual understanding between both nations.
A Bright Future for U.S.-Vietnam Relations
The bilateral relationship between the United States and Vietnam is only beginning to prosper. Expanded government-to-government ties have created deeper institutional linkages between the two countries. Their bilateral friendship will be able to endure changes in administrations in each country, regardless of their respective domestic political environments. Economic engagement in Vietnam is growing steadily in the wake of Western companies de-risking from China. In the semiconductor production sector, renewable energy sector, and critical mineral sector, among others, there are significant opportunities for a U.S.-Vietnam economic partnership.
Meanwhile, the United States and Vietnam continue to earnestly acknowledge their historical war legacies, paving the road toward an eventual mutual understanding between the two nations. Their strengthened bilateral relationship opens educational opportunities for people of both nations, including Vietnamese Americans, to play a role in the United States and Vietnam’s complicated and deepening friendship. And with important anniversaries of both the end of the Vietnam War and diplomatic normalization quickly approaching, the United States and Vietnam will only work to continue the momentum in their growing relationship.
Lauren Mai is a program coordinator and research assistant with the Southeast Asia Program at the Center for Strategic and International Studies (CSIS) in Washington, D.C. Gregory B. Poling is a senior fellow and director of the Southeast Asia Program and the Asia Maritime Transparency Initiative at CSIS. Japhet Quitzon is a research associate with the Southeast Asia Program at CSIS.
Throughout this project, CSIS scholars received support and input from a wide range of U.S. and Vietnamese experts on Southeast Asia. The Southeast Asia Program thanks them for their counsel. The authors would also like to thank Giang Pham and Amelie De Leon for their assistance in producing this white paper.
This report is made possible with support from Energy Capital Vietnam and the Vietnam-America Research and Education Fund, Inc.