1954 Geneva Agreement – A lasting legacy of diplomacy for Vietnam

Bảy mươi năm trước, Hiệp định Genève về chấm dứt chiến sự ở Việt Nam được ký kết, mở ra một chương mới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.

Seventy years ago, the Geneva Agreement on the Cessation of Hostilities in Vietnam was signed, opening up a new chapter in the country’s struggle for national liberation and reunification.
Along with the 1946 Preliminary Agreement and the 1973 Paris Agreement, the 1954 Geneva Agreement was a glorious milestone in Vietnam’s revolutionary diplomacy, bearing the imprint of President Ho Chi Minh’s ideology, style and art of diplomacy. It was also a vivid demonstration of the country’s “bamboo diplomacy”, as recognised by international experts.
Cùng với Hiệp định sơ bộ năm 1946 và Hiệp định Paris năm 1973, Hiệp định Geneva năm 1954 là cột mốc vẻ vang trong đường lối ngoại giao cách mạng Việt Nam, mang đậm dấu ấn tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là minh chứng sinh động cho chính sách “ngoại giao cây tre” của đất nước được các chuyên gia quốc tế ghi nhận.

From Dien Bien Phu to Geneva

The Geneva Conference begins on May 8, 1954, only one day after the resounding Dien Bien Phu victory, to discuss the restoration of peace in Indochina. (Photo: VNA) / Hội nghị Geneva khai mạc ngày 8/5/1954, chỉ một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội, để bàn việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. (Ảnh: VNA)

On May 8, 1954, one day after the Dien Bien Phu victory that “echoed across five continents and shook the entire world”, the Geneva Conference began to discuss the restoration of peace in Indochina. 
Ngày 8/5/1954, một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ “vang vang năm châu và chấn động cả thế giới”, Hội nghị Genève bắt đầu bàn việc lập lại hòa bình ở Đông Dương.
After 75 days of complicated and intense negotiations with 31 sessions, the Geneva Agreements was signed on July 21, 1954. This, coupled with the Final Declaration on Restoring Peace in Indochina, affirmed the independence, sovereignty, unity, and territorial integrity of Vietnam, prevented the deployment of military officers and personnel to Vietnam, and determined the temporary nature of military borders as well as the need for an eventual free general election, among others.
Sau 75 ngày đàm phán phức tạp và căng thẳng với 31 phiên họp, Hiệp định Geneva đã được ký kết vào ngày 21/7/1954. Cùng với Tuyên bố cuối cùng về lập lại hòa bình ở Đông Dương, khẳng định độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, ngăn cản việc triển khai các sĩ quan và quân nhân đến Việt Nam, đồng thời xác định tính chất tạm thời của biên giới quân sự cũng như sự cần thiết phải có một cuộc tổng tuyển cử tự do cuối cùng, cùng nhiều vấn đề khác.
Deputy Prime Minister and Minister of Foreign Affairs Pham Van Dong, who leads the Democratic Republic of Vietnam’s delegation at the Geneva conference, at Geneva airport in May 1954 (Photo: Russia’s national film registry)/ Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại hội nghị Geneva, tại sân bay Geneva tháng 5/1954 (Ảnh: Cơ quan đăng ký phim quốc gia Nga)

In his rally following the successful Geneva Conference on July 22, 1954, President Ho Chi Minh announced that: “The Geneva Conference has concluded, and Vietnam’s diplomacy has achieved a great victory.” Indeed, while France only recognised Vietnam as a free state within the French Union in the 1946 Preliminary Agreement, with the Geneva Agreement, for the first time in the history of our country, Vietnam’s fundamental rights of a nation, including independence, sovereignty, unity, and territorial integrity, were officially affirmed in an international treaty, and recognised by countries at the Geneva Conference. This constituted an important political and legal basis for our people to continue the fight on political and diplomatic fronts, so as to subsequently liberate the South and reunite the country.
Trong cuộc mít tinh sau Hội nghị Geneva thành công ngày 22/7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Hội nghị Geneva đã kết thúc, nền ngoại giao Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn”. Quả thực, trong khi Pháp chỉ công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do trong Liên hiệp Pháp trong Hiệp định sơ bộ năm 1946, với Hiệp định Geneva, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, thì các quyền cơ bản của Việt Nam của một dân tộc, trong đó có độc lập, chủ quyền, thống nhất. và toàn vẹn lãnh thổ đã được chính thức khẳng định trong một điều ước quốc tế và được các nước thừa nhận tại Hội nghị Geneva. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để nhân dân ta tiếp tục đấu tranh trên các mặt trận chính trị, ngoại giao, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

President Ho Chi Minh, General Vo Nguyen Giap, Minister of Foreign Affairs Pham Van Dong and the delegation of the International Commission for supervision and control of the agreement on the cessation of hostilities in Vietnam in Thai Nguyen province (Photo: National Archives Centre III) / Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng và đoàn Ủy ban Quốc tế giám sát, kiểm soát Hiệp định chấm dứt chiến sự ở Việt Nam tại tỉnh Thái Nguyên (Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III)

Together with the Dien Bien Phu victory, the signing of the Geneva Agreement led to the successful conclusion of the Vietnamese people’s resistance war against the French colonial empire, and put a decisive end to the reign of colonialism over Vietnam for nearly 100 years.
Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ đã dẫn đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống đế quốc thực dân Pháp, đặt dấu chấm hết quyết định cho ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam gần 100 năm qua.
According to history books, the Agreement had thus paved the way for a new strategic phase for Vietnam’s revolution – the building of socialism in the North, and the pursuit of national and people’s democratic revolution in the South, with a view to truly achieving national independence and reunification.
Theo sử sách, Hiệp định đã mở đường cho một giai đoạn chiến lược mới của cách mạng Việt Nam – xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực sự giành được độc lập dân tộc. và thống nhất.

At a press briefing on July 22, 1954, Deputy Prime Minister and Minister of Foreign Affairs Pham Van Dong talks about Vietnam’s reunification and the ties with France. (Photo: Ministry of Foreign Affairs) / Tại cuộc họp báo ngày 22/7/1954, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng nói về sự nghiệp thống nhất đất nước và mối quan hệ với Pháp. (Ảnh: Bộ Ngoại giao)

Flexible yet resolute tactics key to Vietnam’s negotiation success / Chiến thuật linh hoạt nhưng kiên quyết là chìa khóa thành công trong đàm phán của Việt Nam

“Flexible yet resolute tactics were key principles all members of the Democratic Republic of Vietnam’s delegation attending the Geneva Conference on Indochina adhered to throughout the negotiation,” Ha Thi Ngoc Ha, daughter of Ambassador Ha Van Lau, a member of the Geneva delegation retold the stories her father shared with her many years after the historic conference. 
Bà Hà Thị Ngọc Hà, con gái Đại sứ Hà Văn Lầu, thành viên phái đoàn Geneva kể lại: “Chiến thuật linh hoạt nhưng kiên quyết là những nguyên tắc then chốt mà tất cả các thành viên trong phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Hội nghị Geneva về Đông Dương tuân thủ trong suốt quá trình đàm phán”. những câu chuyện mà cha cô đã chia sẻ với cô nhiều năm sau hội nghị lịch sử.
Ha’s father, Ha Van Lau, was Director-General of the General Staff of the Vietnam People’s Army’s Department of Operations at the time he was assigned by Deputy Prime Minister Pham Van Dong to join the Geneva conference’s negotiations in 1954.
Cha của Hà, Hà Văn Lầu, là Tổng cục trưởng Bộ Tổng tham mưu Cục Tác chiến Quân đội nhân dân Việt Nam vào thời điểm ông được Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng phân công tham gia đàm phán Hội nghị Geneva năm 1954.

“Deputy Prime Minister Pham Van Dong asked my father and other members of the delegation to stay focused and vigilant at the Geneva Conference because France, though conceding defeat in the Dien Bien Phu battle just one day before, would not accept humiliation at the negotiating table,” Ha recalled. From her father’s stories, Ha also learnt that flexibility was extremely important in negotiations for all sides involved to reach mutually agreeable deals even though diplomats must stay consistent to their core principles.
“Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu cha tôi và các thành viên trong phái đoàn hãy tập trung và cảnh giác tại Hội nghị Geneva vì Pháp dù thừa nhận thất bại trong trận Điện Biên Phủ chỉ một ngày trước đó nhưng sẽ không chấp nhận sự sỉ nhục trên bàn đàm phán”. ”, Hà nhớ lại. Từ những câu chuyện của cha, Hà cũng học được rằng sự linh hoạt là cực kỳ quan trọng trong đàm phán để tất cả các bên liên quan đạt được những thỏa thuận mà các bên cùng đồng ý, mặc dù các nhà ngoại giao phải nhất quán với các nguyên tắc cốt lõi của họ.

Members of the Democratic Republic of Vietnam’s delegation to the 1954 Geneva Conference. (Photo: Ministry of Foreign Affairs)/ Các thành viên trong phái đoàn nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954. (Ảnh: Bộ Ngoại giao)
French Prime Minister and Foreign Minister Pierre Mendès France meet with the Democratic Republic of Vietnam’s delegation after the Geneva Conference concluded on July 21, 1954. (Photo: Ministry of Foreign Affairs) / Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Pierre Mendès France gặp Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Hội nghị Geneva kết thúc ngày 21/7/1954. (Ảnh: Bộ Ngoại giao)

The Geneva Agreement resolved the Indochina issue in accordance with the stance of the Democratic Republic of Vietnam, that was establishing peace on the basis of respect for the right of national unity, independence, and democracy of the three countries in the region.
Hiệp định Genève giải quyết vấn đề Đông Dương phù hợp với lập trường của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thiết lập hoà bình trên cơ sở tôn trọng quyền đoàn kết dân tộc, độc lập, dân chủ của ba nước trong khu vực.

At the closing plenary session of the Foreign Ministers’ meeting in Geneva in July 1954 (Photo: Russia’s national film registry)

Commenting on Vietnam’s tactics in signing the Geneva Agreement, Pierre Asselin, Professor of History at San Diego State University, the US, said: “In signing the Geneva Agreement, President Ho Chi Minh hoped for the best but also prepared for the worst.”
Bình luận về chiến thuật của Việt Nam trong việc ký Hiệp định Geneva, Pierre Asselin, Giáo sư Lịch sử tại Đại học bang San Diego, Hoa Kỳ, cho biết: “Khi ký Hiệp định Geneva, Chủ tịch Hồ Chí Minh hy vọng điều tốt nhất nhưng cũng chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất”.

Pham Van Dong and other negotiators of the the Democratic Republic of Vietnam faced many challenges. I think that Vietnamese diplomacy was quite shrewd and sensible in Geneva. In the final analysis, they worked and availed themselves well.
Phạm Văn Đồng và các nhà đàm phán khác của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp nhiều thách thức. Tôi cho rằng ngoại giao của Việt Nam khá khôn ngoan và nhạy bén ở Geneva. Trong phân tích cuối cùng, họ đã làm việc và tận dụng tốt bản thân.
Pierre Asselin, Professor of History at San Diego State University, the US
Pierre Asselin, Giáo sư Lịch sử tại Đại học Bang San Diego, Hoa Kỳ
“Understanding the views and strategic intentions of major powers, Vietnam handled the situation flexibly through both bilateral and multilateral meetings and exchanges during the negotiations.” Emeritus Professor Carl Thayer, New South Wales University, Australia / “Hiểu được quan điểm, ý đồ chiến lược của các nước lớn, Việt Nam đã xử lý tình hình linh hoạt thông qua các cuộc tiếp xúc, trao đổi song phương và đa phương trong quá trình đàm phán.” Giáo sư danh dự Carl Thayer, Đại học New South Wales, Australia

Talking to Vietnam News Agency on the occasion of 70 year- anniversary of Geneva Agreement, Emeritus Professor Carl Thayer from New South Wales University, Australia, said “bamboo diplomacy was illustrated through the negotiations of the Geneva Agreement. The Vietnamese negotiators stayed steadfast on their goals of independence and freedom but flexible about how to achieve them”.
Trao đổi với Thông tấn xã Việt Nam nhân kỷ niệm 70 năm Hiệp định Geneva, Giáo sư danh dự Carl Thayer từ Đại học New South Wales, Australia, cho biết “ngoại giao tre nứa được thể hiện qua các cuộc đàm phán Hiệp định Geneva. Các nhà đàm phán Việt Nam kiên định với mục tiêu độc lập, tự do nhưng linh hoạt trong cách thức đạt được mục tiêu đó”.

International support, solidarity treasured / Hỗ trợ quốc tế, đoàn kết quý báu

With the signing of the Geneva Agreement in 1954, Vietnam showed the world the country did not just win international support through official diplomatic channels but also getting help and encouragement from the general public of many countries. President Ho Chi Minh and other Vietnamese leaders were able to maneuver gracefully the “people-to-people diplomacy”, contributing remarkably to the victory of the Democratic Republic of Vietnam at the Geneva Conference.
Với việc ký kết Hiệp định Geneva năm 1954, Việt Nam đã cho thế giới thấy rằng đất nước không chỉ giành được sự ủng hộ của quốc tế thông qua các kênh ngoại giao chính thức mà còn nhận được sự giúp đỡ, động viên từ công chúng nhiều nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Việt Nam đã khéo léo thực hiện “ngoại giao nhân dân” góp phần quan trọng vào thắng lợi của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Giơ-ne-vơ.
It was French people’s support to the Vietnamese Party, Government and people that became a crucial factor in the negotiations at that time, Australian Professor Carl Thayer pointed out.
Giáo sư Australia Carl Thayer chỉ ra rằng chính sự ủng hộ của người dân Pháp đối với Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã trở thành yếu tố then chốt trong đàm phán lúc bấy giờ.
The French organise public demonstrations against the war in Indochina. (File Photo) / Người Pháp tổ chức các cuộc biểu tình công khai phản đối chiến tranh ở Đông Dương. (Tập tin ảnh)

“In 1953 when I was eight years old and living in France, there were public demonstrations against the war in Indochina. They called the war in Indochina “la sale guerre” (dirty war),” recalled Professor Thayer, a political expert best known for his profound studies about Vietnam.
“Năm 1953, khi tôi 8 tuổi và đang sống ở Pháp, đã có những cuộc biểu tình công khai phản đối chiến tranh ở Đông Dương. Họ gọi cuộc chiến ở Đông Dương là “la sale guerre” (chiến tranh bẩn thỉu), Giáo sư Thayer, một chuyên gia chính trị nổi tiếng với những nghiên cứu sâu sắc về Việt Nam, nhớ lại.
During his journey to seek ways for national salvation, President Ho Chi Minh, a founder of the French Communist Party, was well aware of the importance of international support to national liberation efforts, Thayer noted. “The late leader of Vietnam penned many articles published on French newspapers, calling French people to back Vietnam’s just struggle”.
Thayer nhấn mạnh, trong hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, nhận thức rõ tầm quan trọng của sự hỗ trợ quốc tế đối với nỗ lực giải phóng dân tộc. “Cố lãnh tụ Việt Nam đã viết nhiều bài đăng trên báo Pháp, kêu gọi nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam”.
Pierre Asselin, Professor of History at San Diego State University, the US, shared the same view on the significance of diplomacy in national liberation movements. “Before and during the Geneva Conference, Ho Chi Minh and his Government waged a rather successful diplomatic struggle to win foreign friends’ support. I think this played an important role in forcing France to negotiate an end to the war”.
Pierre Asselin, Giáo sư Lịch sử tại Đại học bang San Diego, Mỹ, cũng có cùng quan điểm về tầm quan trọng của ngoại giao trong phong trào giải phóng dân tộc. “Trước và trong Hội nghị Genève, Hồ Chí Minh và Chính phủ của Người đã tiến hành đấu tranh ngoại giao khá thành công để giành được sự ủng hộ của bạn bè nước ngoài. Tôi nghĩ điều này đóng vai trò quan trọng trong việc buộc Pháp phải đàm phán để chấm dứt chiến tranh”.

Locals in Thai Nguyen province hold meeting to welcome the Geneva Conference in 1954 (Photo: Ministry of Foreign Affairs) / Người dân tỉnh Thái Nguyên họp mặt chào mừng Hội nghị Geneva năm 1954 (Ảnh: Bộ Ngoại giao)

Many social organisations such as the Vietnam’s Women Union and the Vietnam General Confederation of Labour regularly dispatched their representatives to international conferences and forums where they called for international support for Vietnam’s battle for independence and at the same time, sending out a clear message that Vietnamese people would fight until their last breath to protect the independence and freedom of their country, just like French people did against German fascists.
Nhiều tổ chức xã hội như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thường xuyên cử đại diện tham dự các hội nghị, diễn đàn quốc tế, kêu gọi quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam, đồng thời gửi đi một thông điệp rõ ràng rằng nhân dân Việt Nam sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ độc lập, tự do của đất nước mình như người dân Pháp đã chống lại phát xít Đức.
France’s social-political organisations, including those of women and youths and trade unions, showed their acts of support in different forms, including collecting signatures to demand peace in Vietnam, convening meetings, and staging demonstrations across France, especially in big cities. Labourers in many French colonies in Africa like Algeria, Morocco, Tunisia and Madagascar also overtly showed their support in various forms.
Các tổ chức chính trị – xã hội của Pháp, trong đó có các tổ chức phụ nữ, thanh niên, công đoàn, đã thể hiện sự ủng hộ dưới nhiều hình thức khác nhau, như thu thập chữ ký yêu cầu hòa bình ở Việt Nam, triệu tập mít tinh, biểu tình trên khắp nước Pháp, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Người lao động ở nhiều thuộc địa của Pháp ở châu Phi như Algeria, Maroc, Tunisia và Madagascar cũng công khai thể hiện sự ủng hộ của mình dưới nhiều hình thức.
Workers at ports in North Africa launched strikes protesting the transfer of weapons to the Southeast Asian nation. In Thailand, India, Indonesia, Myanmar and some capitalist countries such as West Germany, Austria and Australia, the support Vietnam movements spread rapidly.
Công nhân tại các cảng ở Bắc Phi phát động đình công phản đối việc chuyển vũ khí sang quốc gia Đông Nam Á này. Tại Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia, Myanmar và một số nước tư bản như Tây Đức, Áo, Australia, phong trào ủng hộ Việt Nam lan rộng nhanh chóng.
Some international organisations like the World Federation of Trade Unions and the World Peace Council issued resolutions strongly condemning the French invasion and demanding an immediate end to the war and restoration of peace in Indochina. Vietnam also received valuable support and assistance from neighbouring countries of Laos and Cambodia throughout its resistance wars against invasion forces.
Một số tổ chức quốc tế như Liên đoàn Công đoàn Thế giới, Hội đồng Hòa bình Thế giới đã ra các nghị quyết lên án mạnh mẽ sự xâm lược của Pháp và yêu cầu chấm dứt ngay chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Việt Nam cũng nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu của các nước láng giềng Lào, Campuchia trong suốt các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược.

Valuable diplomatic lessons / Bài học ngoại giao quý giá

According to Minister of Foreign Affairs Bui Thanh Son, the negotiations, signing and implementation of the Geneva Agreement have retained their values as a guidebook for Vietnam’s diplomacy, with various lessons on distinctive principles, methods and the art of the Ho Chi Minh diplomacy until today. 
Theo Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, việc đàm phán, ký kết và thực hiện Hiệp định Geneva vẫn giữ được giá trị như một kim chỉ nam cho ngoại giao Việt Nam, với nhiều bài học về nguyên tắc, phương pháp đặc biệt và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh cho đến ngày nay.
It is the lesson of using the combined strength of the nation and the times, and of national and international solidarity to create “an unparalleled might.” Apart from harnessing our country’s righteous cause and great national unity, the Party made the accurate decision to further bolster Vietnam’s solidarity with the world, starting with Laos, Cambodia, socialist states, international friends, and the peace-lovers around the globe.
Đó là bài học về việc vận dụng sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, của sự đoàn kết dân tộc và quốc tế để tạo nên “sức mạnh vô song”. Bên cạnh việc phát huy chính nghĩa và đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta đã có quyết định chính xác là tăng cường hơn nữa tình đoàn kết của Việt Nam với thế giới, bắt đầu từ Lào, Campuchia, các nước xã hội chủ nghĩa, bạn bè quốc tế và các nước yêu chuộng hòa bình trên toàn cầu.
“During the negotiations of the agreement, we bolstered international solidarity, and took advantage of the support that foreign friends gave us in the Vietnamese people’s righteous struggle for national independence”, he stressed.
Ông nhấn mạnh: “Trong quá trình đàm phán Hiệp định, chúng ta đã tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các bạn nước ngoài dành cho chúng ta trong cuộc đấu tranh chính nghĩa vì độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam”.

One timeless lesson is to rely on peaceful dialogue and negotiation to settle disputes and differences in international relations.
Bài học vượt thời gian là dựa vào đối thoại, đàm phán hòa bình để giải quyết các tranh chấp, khác biệt trong quan hệ quốc tế.
Minister of Foreign Affairs Bui Thanh Son 
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn

Another important one is to be unwavering in objectives and principles, and responsive in strategies, true to the principle of “to be firm in principles but flexible in their applications”.
Một điều quan trọng nữa là phải kiên định trong mục tiêu và nguyên tắc, nhạy bén trong chiến lược, đúng với nguyên tắc “vững chắc về nguyên tắc nhưng linh hoạt trong áp dụng”.
President Ho Chi Minh stated that “our unflagging goals are peace, reunification, independence, and democracy. Our principles shall remain firm, and our actions flexible.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Mục tiêu không ngừng của chúng ta là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Các nguyên tắc của chúng tôi sẽ vẫn vững chắc và hành động của chúng tôi sẽ linh hoạt.”
One more lesson is to pay due importance to the work of research, assessment, and forecasting. It is necessary to “know oneself” and “know others” and know when to “seize the times” and “seize the opportunities”, so as to “know when to advance and when to retreat”, and “know when to take a tough or soft stance.” This is an insightful experience, especially when the world today is facing major, complex, and unpredictable shifts.
Một bài học nữa là phải coi trọng công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo. Cần “biết mình”, “biết người”, biết “nắm bắt thời cơ”, “biết thời cơ”, để “biết khi nào tiến, khi nào nên lùi”, “biết khi nào nên nhường bước”. lập trường cứng rắn hay mềm mại.” Đây là một trải nghiệm sâu sắc, đặc biệt khi thế giới ngày nay đang phải đối mặt với những thay đổi lớn, phức tạp và khó lường.

Vietnam has been consistent with its foreign policy of independence, self-reliance, diversification and multilateralization of international relations. (Photo: VNA) / Việt Nam kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ quốc tế. (Ảnh: VNA)

One more timeless lesson is to rely on peaceful dialogue and negotiation to settle disputes and differences in international relations. In tandem with the launching of the 1953 – 1954 Winter – Spring Offensive, the Communist Party of Vietnam opted for peace talks to put an end to the war and forge a new path in the discussion to cease hostilities in Indochina. While perspectives regarding the matter may differ, it is irrefutable that the Geneva Conference offered a timeless lesson on addressing international conflicts and disagreements through peaceful means, particularly at present, when the world is facing numerous complicated disputes.
Thêm một bài học vượt thời gian là dựa vào đối thoại, đàm phán hòa bình để giải quyết các tranh chấp, khác biệt trong quan hệ quốc tế. Song song với việc phát động cuộc tấn công Đông Xuân 1953 – 1954, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn đàm phán hòa bình để chấm dứt chiến tranh và tìm ra con đường mới trong đàm phán nhằm chấm dứt chiến sự ở Đông Dương. Dù quan điểm về vấn đề này có thể khác nhau, nhưng không thể phủ nhận rằng Hội nghị Geneva đã đưa ra bài học vượt thời gian về việc giải quyết các xung đột, bất đồng quốc tế bằng các biện pháp hòa bình, đặc biệt trong thời điểm hiện nay khi thế giới đang phải đối mặt với nhiều tranh chấp phức tạp.
The final lesson, Minister Son says, is the holistic and overarching leadership of the Party in Vietnam people’s revolutionary cause and the battle on the diplomatic front in particular. The Communist Party of Vietnam put in place accurate guidelines, orientations, and strategies for Vietnam’s revolution, established a proactive diplomatic front that was utilized in tandem with political and military efforts to foster a collective strength and best ensure our national interests.
Bài học cuối cùng, Bộ trưởng Sơn cho rằng, là sự lãnh đạo toàn diện, bao quát của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và cuộc chiến trên mặt trận ngoại giao nói riêng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra những chủ trương, định hướng, chiến lược chính xác cho cách mạng Việt Nam, thiết lập mặt trận ngoại giao chủ động, kết hợp với chính trị, quân sự nhằm phát huy sức mạnh tập thể, bảo đảm tốt nhất lợi ích quốc gia.

Vietnam has been a reliable friend and responsible member of the international community. (Photo: VNA) / Việt Nam là người bạn tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. (Ảnh: VNA)

In nearly four decades of Doi moi (Reform), Vietnam has upheld its foreign policy of independence, self-reliance, diversification and multilateralisation of international relations, proactively integrated into the world, and become a reliable friend and responsible member of the international community.
Trong gần 4 thập kỷ Đổi mới, Việt Nam đã kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, trở thành người bạn tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
To date, the country has set up diplomatic ties with 193 UN member states, and established strategic and comprehensive strategic partnerships with 30 countries. It has engaged in and negotiated 19 free trade agreements to shape up an extensive economic
network with more than 60 economies./.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 nước thành viên Liên hợp quốc và thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, chiến lược toàn diện với 30 nước. Nó đã tham gia vào và đàm phán 19 hiệp định thương mại tự do để hình thành một nền kinh tế sâu rộng mạng lưới với hơn 60 nền kinh tế./.

<

p style=”text-align: justify;”>Source link

Gửi phản hồi

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Latest Articles

A Last Respect, Flashbacks & Flowers and Working Out

Poetry roundup: Caroline Bracken reviews three new collections: A...

TUẦN THƠ 36: THƠ SONG NGỮ

Giải Diễn đàn thơ Tân hình thức Việt được trao tặng cho những sáng tác thơ xuất sắc do các thành viên tham gia sáng tác trong mục “Thơ Sáng Tác” hoặc gửi về Ban biên tập thơ theo địa chỉ thư điện tử, địa chỉ bưu điện. Những sáng tác của những thành viên trong Ban quản trị và Ban biên tập không được xét để trao giải thưởng.

VIRUS VŨ HÁN VÀ CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU

When we try to help others, they consider us enemies. But we can thank them because, through them, we can know the nature of each person. The Wuhan Virus helps us to recognize the good and the bad, to rise above both to retain our human affection. Thanks to that, new love arises. Hopefully.

Cách yêu trong tiếng Phạn—Những biểu hiện vĩnh cửu trong ngôn ngữ hiện đại

VENKATESH PRASANNA | Feb 27, 2024, 06:54 PM | Updated...

THƠ VĂN MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975

TẠP CHÍ VĂN SỐ 45(1/11/1965)     FRANCOISE SAGAN DƯỚI MẮT CHÍNH...

TẾT Ở NEW YORK

Giới thiệu Diễn Đàn thơ Tân hình thức Việt _____________________________ Khế...

Related Articles

Cách tân và sự ứng xử với truyền thống

Cách tân và sự ứng xử với truyền thống Ts. Nguyễn Thanh Tâm Người ta thích nói về sự cách tân (làm mới) như là một...

TUẦN THƠ 02: CHÙM THƠ NHIỀU NGƯỜI VIẾT

TIẾNG HÁT TỪ CỔ XƯA Chàng thất lạc tới ngôi nhà hoang phế những con đừơng dẫn lối xưa như cỏ dại và chàng đẩy cửa vào như cánh cửa đẩy chàng vào căn phòng lờ mờ tím than và chàng đọc trên bức vách những con chữ ngoằn ngòeo bay ra mùi ẩm mốc của thứ thời gian đặc lại và lõang tan trong lớp bụi bậm tự thuở nào còn văng vẳng tiếng cười đùa trong cơn huyên náo của tình yêu như tiếng reo ca của dục lạc tiếng nước chảy trong chiều hè và dòng sông nước mắt và nước mắt dòng sông …

GHI CHÚ VỀ MỘT LÀNG VĂN BOHEMIA MỚI

Dana Gioia Cách đây hai mươi năm, tôi bắt đầu cao học. Tôi là con của một người thuộc giai cấp công nhân gốc gác...

Khám phá thêm từ THO VIET

Đăng ký ngay để tiếp tục đọc và truy cập kho lưu trữ đầy đủ.

Tiếp tục đọc