Nhật ký người xem đồng hồ là tập thơ mới nhất của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Cuốn sách thể hiện rõ nét nét độc đáo và phong cách thơ của ông. Điều dễ nhận thấy ở tập thơ này là Nguyễn Quang Thiều đã sử dụng hệ thống ký hiệu dày đặc trong từng câu thơ, bài thơ; tạo nên những dấu ấn đặc biệt và giọng thơ ấy cũng chính là tiếng nói đầy thương cảm của một người từng trải như anh. Hệ thống biểu tượng trong thơ Nguyễn Quang Thiều vô cùng phong phú và giàu tính gợi ý, làm chất liệu nghệ thuật tạo nên hiện thực trong nhiều mối quan hệ đa dạng của đời sống hiện thực cũng như có chiều sâu. Tâm linh.
Thơ Nguyễn Quang Thiều không phải là loại thơ dễ đọc, dễ hiểu, dễ cảm nhận. Khi đọc thơ, bạn phải đọc chậm rãi, ngẫm nghĩ, suy ngẫm mới có thể nhận ra những ý nghĩa sâu xa mà nhà thơ đã gửi gắm vào đó.
Thơ Nguyễn Quang Thiều mang dấu ấn của thơ hậu hiện đại với nhiều biểu tượng gợi, ám ảnh. Phong cách viết ảo với những suy nghĩ, triết lý về cuộc sống, con người, mọi chuyện đã, đang và sẽ xảy ra. Nhà thơ đối thoại với chính mình, độc thoại với chính mình, đối thoại với thế giới xung quanh dưới góc nhìn đa chiều. Dường như ở bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ không gian nào, bất cứ thứ gì trong cái nhìn của Nguyễn Quang Thiều đều đầy rẫy các sự kiện và hình ảnh; Họ luôn đấu tranh và xảy ra đến vô tận… Bởi cuộc sống con người hiện đại vốn đã phức tạp, vạn vật luôn thay đổi, thay đổi từng giờ, từng phút và đặc biệt là những chuẩn mực văn hóa, những thay đổi về đạo đức rất đan xen và khó lường.
Ký hiệu thời gian: tháng, năm, đêm, ngày, sáng, trưa, chiều, giờ; biểu tượng của ánh sáng và bóng tối; Biểu tượng giấc mơ… xuất hiện với tần suất cao trong Nhật ký của Watch Watcher. Trên cơ sở đó, nó giúp nhà thơ mở đường, tìm tòi, mở ra những chiều sâu của vô thức, phóng chiếu từ hiện thực đến siêu hình, huyền bí…; mang lại cho thơ sự hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.
Từ Daily News, diễn ra ở bên kia thế giới, bị ngăn cách bởi không gian địa lý và bản sắc dân tộc; Nguyễn Quang Thiều có những liên tưởng, chuỗi liên kết độc đáo, liên tục để truyền tải những điều sâu sắc, nhân văn. Ngoài ra còn có những lo lắng và bất an thường trực khi bạn nhìn thấy sự không chắc chắn ở bất cứ nơi đâu; Bởi vì ngay cả ở những nơi an toàn nhất cũng có nguy hiểm.
Viên cảnh sát da trắng/ Bắn tám viên đạn vào một thanh niên da đen// Bình luận viên đi ăn trưa/ Bên kia thế giới/ Và nơi tôi đang ở – nửa đêm// Một cảm giác/ Nỗi sợ hãi tột độ/ Đau đớn tột cùng/ Lan ra như máu/ Trên khăn trải bàn// Bên kia đang là buổi trưa/ Bên này là nửa đêm// Tôi thấy/ Những con cá mắc kẹt trong nước.
Từ con người riêng của mình, Nguyễn Quang Thiều nhìn ra mọi hướng bằng một góc nhìn biện chứng nhưng cũng có lúc huyền ảo, lung linh. Trong bài thơ “Mưa gần sáng”, nhà thơ viết nhân ngày giỗ mẹ và cũng tạo nên ba nỗi ám ảnh dai dẳng. Từ những sự việc, sự việc được đề cập, nhà thơ đã ngầm có mối liên hệ và gắn kết chúng lại với nhau. Bằng kỹ xảo nghệ thuật, những hình ảnh tưởng chừng bình thường lại trở nên độc đáo, sự đan xen giữa hai cõi mộng-ảo và thực-mơ đã mở ra những liên tưởng bất ngờ và thú vị. Cái lạnh của cơn mưa sớm/ Con rắn nước trườn qua tôi/ Giấc mơ còn lại/ Trên lá ký ức/ Trong khu vườn thời gian// Mãi nhớ giấc mơ xa/ Ngày mẹ còn sống/ Tuổi thơ hoang dại Cánh đồng/ Chàng trai đứng lặng/ Thời gian cũng ngừng trôi// Cúc vạn thọ rung nhẹ/ Nghĩa trang vang vọng tiếng người xưa/ Mẹ lau nước mắt cho con/ Trên biên giới mùa thu mây trắng// Có con gọi con mẹ lớn lên/ Bỗng già đi trong chiều tối.
Hình ảnh giấc mơ và người mẹ song hành trong bài thơ, thể hiện những tình cảm chân thành, chân thành về người thân yêu nhất của chủ thể trữ tình. Mẹ là biểu tượng vĩ đại, là điểm tựa tinh thần luôn hiện diện trong tâm trí con trên mọi nẻo đường đời. Vì thế, dù mẹ đã thành người cổ đại nhưng đứa con vẫn “mơ” được mẹ dõi theo để an ủi, an ủi…
Thơ Nguyễn Quang Thiều là tiếng nói của một con người luôn nỗ lực sáng tạo, có trái tim nhân hậu, nhân hậu; với những khát vọng luôn muốn được khẳng định và thể hiện. Khát khao đó vừa mãnh liệt vừa dứt khoát với mọi biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm.
Người Lạc Đường là bài thơ để lại cho tôi rất nhiều suy nghĩ, bởi nhà thơ đã khéo léo gửi vào đó những ước muốn, mong muốn rất con người, vượt lên trên mọi lẽ thường trần tục, thanh lọc những điều vụn vặt, toan tính. thắng hay thua… Mong về một thế giới tràn đầy tình yêu, ấm áp trong niềm tin, hy vọng…
Có hai người lạc lối/ Trên con đường dài của nhân loại/ Giờ trở về như một giấc mơ/ Gió thổi lên bản nhạc kỳ diệu/ Và họ là lời bài hát/ Của một bài hát buồn và đẹp// Không có gì đau đớn hơn con người . Người lạc lối/ Không có gì kỳ diệu hơn việc tìm được ai/ Dưới tán nắng/ Tiếng chim hót say đắm/ Câu chuyện của họ bắt đầu từ câu thơ đầu tiên// Nhưng có một người không bao giờ lạc/ Trở về mỗi đêm Cười trong bóng tối/ Hãy để những ngôi sao lần lượt xuất hiện/ Soi sáng con đường trên trái đất/ Dẫn dắt những người lạc lối.
Đọc Nhật ký người canh gác, nhà phê bình Hoàng Kim Ngọc đã rất đúng khi cho rằng: “Mỗi cột mốc trong thơ Nguyễn Quang Thiều đều lưu giữ một “sự kiện tâm hồn”.
Cảm giác về thời gian đã để lại dấu ấn trong bài thơ Nhật ký người canh gác. Điều đặc biệt là có 24 tựa bài thơ đề cập trực tiếp đến thời gian như một tín hiệu nghệ thuật. Đây không chỉ là những cột mốc mặc định như ngày, sáng, trưa, chiều, đêm… (như: “Sáng chủ nhật”, “Giấc mơ trưa”, “Tin nhắn chiều 29/9/2019”, “Đêm tháng 7″…) mà còn có các dấu thời gian cụ thể đến từng giờ và phút (như: “Lúc 4:11’”, “0:17”, “10:13”…); thậm chí đến từng giây (như bài hát: 10:3’10”)…
Ở mỗi cột mốc thời gian, một bài thơ ra đời như một trang nhật ký của tâm hồn. Ông ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ và đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội từ những điều tưởng chừng như bình thường, nhỏ nhặt.
Trong Nhật ký người canh gác, Nguyễn Quang Thiều luôn có ý thức tạo dựng một hệ thống thơ từ sâu thẳm ký ức, hiện thực và cả những linh cảm về tương lai. Từ những sự vật gần gũi và thực tế xung quanh, nhà thơ tưởng tượng, nghĩ về một không gian, thời gian khác với những phức cảm, dồn nén cảm xúc thông qua hệ thống ngôn ngữ chắt lọc, cô đọng. trì trệ, nhiều tầng…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nối liền quá khứ với hiện tại bằng lối suy nghĩ phức tạp trong chiêm niệm, tương quan, linh cảm… Thời gian trong đêm bò đến trước cửa/ Gen mèo trong máu thức tỉnh/ Chỉ một thoáng tôi rùng mình như chợt tỉnh lạnh/ Tôi bò bằng bốn chân// Tôi nhảy lên bậu cửa sổ/ Nhìn lại căn phòng quen thuộc/ Quần áo, giày dép và tất tôi bỏ lại/ Để lại lý lịch cá nhân/ Với vết đỏ/vết bớt trên da (Mèo chuyển hóa).
Khác với những tập thơ trước đây, trong Nhật ký người canh gác không còn nhiều bài thơ, câu thơ dài mà thay vào đó là những bài thơ ngắn nhưng khả năng và sự liên tưởng của chúng là vô tận. Đặc biệt ở phần 2 tập “Tự khai một số đồ vật trong phòng viết” gồm 22 bài thơ ngắn, thậm chí có bài chỉ có 1 câu, 2 câu, 3 câu. Ví dụ: Tôi ngửi người trước mặt (đốt hương); Chỉ có thân xác tôi là sự thật (Truyền hình); Tôi đổ dầu vào ký ức nhà thơ/Thắp sáng lời nói (Đèn dầu xưa); Tất cả các phím đều im lặng/ Để soạn thảo kỷ niệm (Máy đánh chữ cũ); Tên tôi là rác rưởi/ Dọn dẹp rác rưởi (Trash); Tôi giúp thầy/ Tìm ký ức đã mất (Sổ cũ); Không phải con tàu Nô-ê/ Mà là cả thế giới trong đó (Piano); Gió thổi qua cửa sổ/ Lang thang không mục đích (Acmonika Trumpet); 12:01/ Tôi treo xác lên tường/ Đi rồi (đồng hồ Odo); Những chùm lá sống lại/ Mở bàn tay ra/ Dòng sông bắt đầu chảy (Ấm trà); Khi tôi thắp sáng bóng tối/ Tất cả những khuôn mặt chết/ bừng sáng (Chân nến)…
Bằng tài năng, vốn sống và vốn văn hóa của mình, Nguyễn Quang Thiều đã tổng hợp nhiều phương pháp xây dựng hình tượng gợi ý trong thơ. Ở đó, nhà thơ tiếp cận các phương pháp nghệ thuật theo tinh thần hậu hiện đại: nghệ thuật sắp xếp, tạo dựng cấu trúc thơ theo phong cách rời rạc, đứt đoạn, trôi chảy trong tiềm thức – vô thức… với nhiều ẩn dụ, liên tưởng bất ngờ, thú vị. Vì vậy, thơ Nguyễn Quang Thiều đã tạo nên một phong cách lạ, độc đáo, khác biệt trong dòng chảy thơ Việt Nam đương đại.