Nguyễn Tiến Thanh
Có một thời người ta tin vào thơ như người ta tin vào Thượng đế. Tin rằng thơ mang theo những tầng sâu của linh hồn, là cái đẹp thuần túy vượt khỏi mọi bạo lực của thời đại. Tin rằng thơ là tiếng nói cuối cùng, là kẻ giữ hộ tinh thần con người khi thế giới này chỉ còn lại sự trơ lì.
Nhưng hậu hiện đại đến, không để phủ nhận thơ, mà để đặt một dấu hỏi khắc nghiệt hơn:
“Nếu không còn linh hồn, không còn bản thể, thì thơ còn nói thay ai?”
Hậu hiện đại đã khai tử đại tự sự. Không còn thi sĩ như sứ giả của chân lý, không còn thi ca là vết cắt thiêng liêng giữa người và muôn vật.
Mỗi tuyên bố đều bị nghi ngờ như một vết tích của quyền lực
– điều mà Lyotard từng đoan quyết.
Hậu hiện đại không đọc thơ – nó giải cấu trúc thơ, để chỉ ra rằng mọi ý nghĩa mà ta tưởng là trung tâm đều là một chơi trò dời chỗ không ngừng của dấu hiệu. Câu thơ không chỉ mơ hồ – nó tự rút lui khỏi nghĩa, để phơi ra bản chất không-nơi-trú của ngôn ngữ. Thơ không còn là chỗ trú của linh hồn. Thơ là căn nhà hoang của những ẩn dụ bị đẩy đến tận cùng của tan rã.
Thơ không còn là tiếng nói, chỉ là tiếng vọng. Nó từng được viết bởi những cái tôi rõ nét: Truyện Kiều là Nguyễn Du, Thần khúc là Dante , Bên kia sông Đuống là Hoàng Cầm. Nhưng hậu hiện đại đặt lại toàn bộ: Không còn “tôi”. Chỉ còn một trung tính không xác định phát ra tiếng gào của các mảnh vỡ. Roland Barthes gọi đó là “cái chết của tác giả”. Tác giả không còn là người kiến tạo nghĩa – chỉ là một vị trí tạm thời trong mạng lưới những dấu hiệu. Baudrillard còn tàn nhẫn hơn, nhìn thơ như một biểu tượng rỗng: nơi cái thực được thay thế bằng cái siêu thực, nơi cảm xúc bị mô phỏng lại để bán đi như những khoảnh khắc chân thực.
Thơ hôm nay, trong hậu hiện đại, không còn viết về cái tôi – mà là cái tôi bị vỡ ra và phản chiếu trong gương vạn mảnh. Mỗi bài thơ là một tiếng vọng, không biết vọng từ đâu, không biết vọng về đâu. Có khi ta viết một bài thơ chỉ để nghe lại giọng của chính mình – nhưng không chắc đó còn là mình. Có khi ta làm thơ như thử gõ lên một bức tường không có hồi âm – để biết: có thể chính thơ cũng đã rỗng.
Với hậu hiện đại, thơ trở thành một diễn ngôn không còn chủ thể – và cực đoan hơn- nó cho rằng diễn ngôn không còn phục tùng chân lý mà phục tùng quyền lực. Trong ánh nhìn ấy, thơ không chỉ là một hình thức nghệ thuật, mà là một diễn ngôn bị kiểm soát, định dạng, và cài mã hóa bởi các thiết chế – từ truyền thông, xuất bản đến thị trường thẩm mỹ.
Một phần thơ Việt hiện nay – hậu hiện đại hay tân hình thức- xét cho cùng, cũng là một sản phẩm của cơ chế diễn ngôn ấy. Ở đâu đó, nó chọn cách nổi loạn bằng hình thức, nhưng chưa chắc đã thoát ra khỏi quy luật của việc “thị trường hóa cảm xúc”.
Có thể người ta không viết thơ vì muốn nói, mà vì muốn được thấy là mình đang nói. Có thể thơ không còn được viết để đi tìm ý nghĩa, mà để mua một vị trí giữa các từ khoá hashtag. Nếu vậy, thơ hậu hiện đại là một vết rạn được phơi ra giữa các khối kiến trúc quyền lực. Nó không còn là ngôn ngữ của vĩnh cửu. Nó là một thực hành bất ổn – vừa chống lại diễn ngôn, vừa là sản phẩm của chính nó.
Vậy có còn cái đẹp sau khi bản thể tan rã không? Nếu không còn bản thể, không còn chân lý, không còn cái tôi – thì cái đẹp trong thơ hôm nay là gì? Không còn là xúc cảm cao cả. Không còn là chân – thiện – mỹ. Cái đẹp trở thành một vết nứt được nâng niu. Một khoảnh khắc đứt gãy được giữ lại như dấu hiệu rằng ta vẫn đang sống.
Ta không còn làm thơ để kêu gọi – mà để nhớ rằng có lần mình từng nói. Ta không còn làm thơ để cứu ai – mà để ghi lại rằng ta đã không thể cứu mình. Và có thể, trong sự bất lực đó, thơ tìm thấy một phẩm giá khác: phẩm giá của cái chưa từng trọn vẹn.
Trong cõi thơ không còn nền móng, thơ hậu hiện đại không xây dựng một thế giới. Nó ngồi giữa đống hoang tàn, và làm một động tác rất người: rút trong tro tàn ấy một câu thơ không ai hiểu – nhưng cũng không ai dám lãng quên.
Trong việc thực hành thơ của các tác giả Việt, trong phạm vi đọc của cá nhân, tôi thấy có mấy xu hướng. Ở nhiều tập thơ của các tác giả thế hệ 7x,8x, Derrida vang lên: mọi dấu hiệu về cái tôi trong thơ đều bị trượt, không định vị được, không khép kín. “Tôi” là một cấu trúc bị hủy thiêng. Nhà thơ không còn “viết về mình”, mà viết như một cách làm tiêu biến bản thể. Cái tôi trong thơ luôn đứng trên ranh giới: nửa vật thể – nửa ý niệm, nửa hiện hình – nửa siêu hình. Thơ giải cấu trúc bản thể, bào mòn ranh giới của ý nghĩa, và thường để lại một khoảng trắng giữa những từ – khoảng trắng ấy không phải im lặng, mà là vết cắt của ý thức. Ở những nhà thơ này, thơ không xác định một điểm tựa. Cái tôi biến mất trong hành trình đi vào vùng trắng của ngôn ngữ. Đây là thơ của một bản thể đang tan rã, không cố níu giữ gì, chỉ khắc lại những vết trượt của linh hồn.
Nếu Foucault còn sống và biết tiếng Việt, ông sẽ thích thú trước thực hành thơ của một nhóm thơ hậu hiện đại khá nổi tiếng ở Việt Nam. Họ không làm thơ như một trò chơi chữ. Họ dùng thơ như một gói chất nổ nhỏ gài vào cấu trúc diễn ngôn chính thống: từ mỹ học đến đạo đức, từ chính trị đến văn hóa tiêu dùng. Mỗi bài thơ đều như một cú phỉ nhổ lên tính thiêng liêng, và trong hành vi đó, thơ tự vạch mặt chính mình như một sản phẩm cũng bị chi phối bởi quyền lực và hình thức.
Các tác giả này chính là biểu hiện của hậu hiện đại ở chỗ: tẩy xóa “cái đẹp truyền thống”. Tẩy xóa “cái tôi tinh thần”. Phơi bày thơ như một diễn ngôn bị kiểm duyệt, bị thương mại hóa, hoặc bị thần thánh hóa sai chỗ. Không còn sự thanh cao,
không còn tính nhạc, không còn mộng mị. Họ viết thơ như một hành vi chống lại chính cái khung mà thơ từng bị đóng vào. Thơ họ dơ bẩn như cái bô của người già, nhưng đó là sự thật duy nhất họ không muốn lau đi. Foucault có thể sẽ vỗ tay:
“Diễn ngôn được dựng ra để cai trị – còn thơ như thế là đang phá hoại quyền lực.”
Tôi đặc biệt muốn nhắc đến một nhà thơ nữ định cư ở nước ngoài. Thơ chị không hẳn là giải cấu trúc. Chị khai thác triệt để cơ thể và dục tính như những hình ảnh bị phơi bày, lặp lại, tiêu thụ. Nhưng bên dưới vẻ đẹp lạnh lùng ấy là một mô hình Baudrillard hoàn hảo: Thơ mô phỏng khoái cảm. Khoái cảm mô phỏng tự do. Tự do mô phỏng bản thể.
Trong thế giới ấy, thơ không còn là phản ánh – mà là một sự mô phỏng sự mô phỏng. Nữ thi sĩ viết thơ bằng lưỡi, không để nói mà để làm đứt gãy thói quen hiểu. Thơ không còn là nơi chứa đựng kinh nghiệm sống – mà trở thành trình diễn của chính sự hoài nghi: Kinh nghiệm nào là thật? Cảm xúc nào không bị thao túng bởi thị hiếu? Ngôn ngữ nào không bị rút ruột?
“Nàng trút cởi bí mật úp trên vách đá và trầm mình vào im lặng tìm an toàn
mật mã chiếc chìa khóa mở cửa một nỗi đau kinh hoàng
căn nhà của một người đàn ông và ba người đàn bà
tràn ngập âm thanh và mùi hương phản cảm
tiếng động tình của cô gái, tiếng khóc của nữ chủ nhân, tiếng thở dài thất vọng của nàng ”.
Đó là một buổi trình diễn của những mô phỏng: Giới tính được mã hóa. Khoái cảm bị lặp đi lặp lại. Ngôn ngữ bị bôi trơn để trở thành một hình ảnh dễ lan truyền. Đây là Baudrillard – ở tầng sâu nhất: không còn ranh giới giữa thật và giả – chỉ còn các phiên bản của phiên bản.
Cũng không thể không nhắc đến một nhà thơ nổi tiếng, có thể coi là nổi tiếng nhất của những người nỗ lực khai phá một con đường mới trong thơ Việt sau 1975 . Ông không hậu hiện đại theo kiểu nhóm thơ hay tác giả nữ nói trên. Nhưng chính sự bám víu vào huyền thoại cá nhân, vào bóng tối, vào ký ức không thể phục dựng, lại làm nổi bật một điều: Thơ ông là nỗ lực níu giữ đại tự sự – nhưng trong một thế giới đã không còn nền tảng cho nó.
“Ta không thể nuôi nhau bằng những ánh sao trời
Anh nói vậy xin em đừng khóc
Những ngọn tóc em đang đổ xuống ngực anh
Như những rễ cây bò buồn trong sỏi đá”.
Ta có thể thấy ở đó một tàn dư của chủ nghĩa tượng trưng, nhưng không còn thiêng. Giấc mơ, ánh sao trời, đồng quê, cơ thể – tất cả đều biến thành dấu hiệu không còn gắn với trải nghiệm gốc. Lyotard đã nói: đại tự sự không chết hẳn – nó tồn tại như bóng ma không còn linh hồn. Thơ ông vì thế gợi cảm – và u uất – vì nó không chịu tan trong hậu hiện đại, nhưng bị hậu hiện đại bao vây đến mức mất phương hướng.
Khác với những hình thức trình diễn thơ trẻ hôm nay, thơ của một vài tác giả đương đại khác lại mang dáng vẻ truy nguyên: đi vào bản thể đang mục ruỗng, nhưng không để khôi phục nó – mà để giữ một chút phẩm giá cuối cùng còn lại từ đống hoang tàn. Họ làm thơ như chép lại những câu nói cuối cùng của một người sẽ bị quên mất. Không để ai nhớ. Chỉ để chính mình khỏi tan đi.
Thơ họ lặng lẽ, không kêu gào. Nhưng bên trong nó là một dòng kháng cự thầm lặng. Đây không còn là thơ để “nói điều gì đó” mà là để không rơi hoàn toàn vào câm lặng. Một hành vi của tự vệ bản thể giữa cơn bão tri thức và tiêu dùng.
Có thể thơ Việt hôm nay không còn là nơi cư trú của ý nghĩa.Nhưng nó vẫn là một vùng đứt gãy cần được giữ lại. Một bản thể chưa hoàn tất, nhưng biết mình đang rạn vỡ. Một tiếng gọi không ai đáp – nhưng vẫn vang lên như thanh âm kháng cự cuối cùng của cái đẹp không ai đón nhận.
Vì sau tất cả những Derrida, Baudrillard, Foucault và Lyotard, vẫn còn một điều mà thơ – dẫu hậu hiện đại đến đâu – vẫn không thể thôi cưu mang: Niềm tin mong manh rằng, vẫn có người lặng lẽ lắng nghe. Dù không hiểu. Dù không tin. Nhưng lắng nghe. Không có thơ cứu thế. Không có kẻ làm thơ thay ai. Chỉ có người – đứng giữa tàn tro của chính mình – cố giữ một mảnh chữ chưa cháy hết.
Thơ từng được xem như một căn phòng trú ẩn cuối cùng. Khi lịch sử lầm than, thơ cưu mang ý thức phản kháng. Khi thân thể bị hủy hoại, thơ giữ lại hình ảnh con người. Khi lý trí cạn kiệt, thơ khơi dậy điều chưa từng gọi tên.
Nó từng là nơi mà “tôi” tìm thấy chính mình. Nhưng trong bối cảnh hậu hiện đại – nơi mọi nền tảng của chân lý, đạo lý, niềm tin và bản thể đều bị giải thiêng – thơ liệu còn giữ được vai trò đó?
Hay thơ hôm nay, chỉ còn là vết trượt của ngôn ngữ, vết nứt của bản thể, một tiếng vọng không ai gọi, giữa một thế giới vốn không cần ai phải trả lời?
Không có một định nghĩa duy nhất cho “hậu hiện đại”. Lyotard chỉ gọi nó bằng một dấu hiệu: “sự hoài nghi đối với mọi đại tự sự.” Derrida không định nghĩa – ông giải cấu trúc. Baudrillard không tranh luận – ông dựng nên một thế giới mô phỏng, nơi hình ảnh giết chết thực tại. Foucault không nói về cái đẹp – ông truy lùng quyền lực ẩn trong mọi diễn ngôn. Trong thế giới ấy – thơ cũng không còn là một thực thể thiêng liêng đứng ngoài.
Thơ trở thành vật thể bị nghi vấn: Ai là chủ thể của câu thơ? Có tồn tại bản thể đứng sau ngôn ngữ? Cái tôi thơ ca là ai: người viết, người đọc, hay người được tưởng tượng ra để hoàn tất nghĩa? Thơ không còn đi tìm ý nghĩa – mà bày ra sự đứt gãy của ý nghĩa. Hãy thử đọc một bài thơ hậu hiện đại – bạn sẽ thấy: Không có trung tâm. Không có tuyến tính. Không có kết luận. Không ai chịu trách nhiệm cho câu thơ ấy.
Thơ hôm nay, nếu đi đúng tinh thần ấy, không còn nói lên điều gì đó – mà phơi bày khả năng bất khả của việc nói.Viết thơ – là thừa nhận rằng tôi không thể diễn đạt. Nhưng vẫn viết – vì nếu không, cái không thể ấy sẽ không bao giờ thành hình.
Trong hậu hiện đại, Thơ không còn là tiếng nói – chỉ còn là tiếng vọng. Không còn ai tin rằng thơ là tiếng nói của Chân – Thiện – Mỹ. Thơ hậu hiện đại không còn phát ngôn từ một cái tôi toàn vẹn. Nó nói bằng những vết nứt, những mảnh vụn, những vết cào của một bản thể chưa từng được hình thành. Barthes tuyên bố “cái chết của tác giả”. Nhưng trong thơ, ta có thể cảm thấy rõ hơn: “cái chết của bản thể”. Và rồi, thơ hôm nay có thể không cần người tin. Nhưng vẫn cần người đọc để lắng nghe cái không thể đọc nổi.
Không để hiểu. Không để phán xét. Mà để biết rằng có một nỗ lực chưa từng buông xuôi – giữa thế giới của mô phỏng, của quyền lực, của giải cấu trúc. Một câu thơ hôm nay – có thể không giữ lại ý nghĩa. Nhưng có thể giữ lại một vết chạm, dù rất mong manh, của người từng muốn nói điều gì đó – Trước khi mất hẳn khả năng nói.
Tôi vẫn yêu cái đẹp, theo cách cổ điển. Yêu một câu thơ còn vần, một ý nghĩ còn giữ nhịp thở của linh hồn. Vì vậy, tôi biết mình không thể sống hẳn trong thế giới hậu hiện đại – nơi mọi cấu trúc bị tháo rời, mọi ý nghĩa bị nghi ngờ, và vẻ đẹp trở thành trò chơi ngôn ngữ. Tôi đứng bên ngoài, nhưng không rời mắt. Tôi quan sát. Những con người sống trong đó – và cả thơ ca được sinh ra từ trong chính sự tan rã đó. Không phải để phê phán. Cũng không phải để tuyên xưng một niềm tin cũ. Chỉ là để hiểu. Để nhận ra mình đang ở đâu, khi những điều từng thiêng liêng giờ đã trở nên khả nghi.
Nguyễn Huy Thiệp từng đặt ra một câu hỏi, như một cái bẫy đã nguội dần:
“Đương đại – tức là suy đồi?”
Câu hỏi ấy, thoạt nhìn là sự do dự mang tính phản biện, nhưng kỳ thực – là một xác tín buốt lạnh: rằng trong cái gọi là “đương đại”, ông thấy nhiều hơn một sự tha hóa. Không phải chỉ đạo đức suy đồi, mà cả thẩm mỹ, cảm xúc, trí tuệ – tất cả đang trượt dần khỏi khả thể của cái gọi là “đẹp”. Nhưng tôi thì nghĩ khác. Dẫu không phủ nhận nỗi hoài nghi của ông là một nhắc nhở quan trọng, tôi vẫn tin: cái đẹp – nếu còn – sẽ không nằm trong một hình thức cố định nào, mà trong chính khả năng nó tự hoại, tự tra vấn, tự hồi sinh.
Vì thế, tôi cần đưa ra cảm nhận.
Và để điều đó không là một sự mơ hồ, tôi buộc phải nghĩ đến các ví dụ, những bài thơ, những khuynh hướng, những tiếng nói đã xuất hiện quanh mình. Nhưng bản tiểu luận này không phải là một tập phê bình. Nó càng không phải là một khảo sát học thuật về thơ, cũng không nhằm tổng kết hay hệ thống hóa bất kỳ lý luận nào. Vì thế, tôi không dẫn tên ai cụ thể.
Tôi chỉ muốn giữ lại một nhịp thở cho điều tôi tin: rằng ngay cả trong thế giới hậu hiện đại, nơi mọi giá trị đều bị lật ngược và tan rã, thì vẫn có một thứ – nếu còn – sẽ không để con người chết hẳn: một câu thơ viết ra khi không còn gì để bám víu, nhưng vẫn còn điều gì đó muốn được nói ra như thể linh hồn vẫn còn thở.
Câu hỏi sau cuối: Còn có thể làm thơ không, sau hậu hiện đại? Câu trả lời là: không thể – nếu bạn tin vào thơ như đã từng. Nhưng: Hoàn toàn có thể – nếu bạn tin rằng chính điều bất khả ấy mới là điều duy nhất còn lại để làm.
Thơ hôm nay không còn là công cụ diễn đạt, mà là bằng chứng cho thấy việc diễn đạt đã thất bại. Một chứng tích, một vết rạn, một tiếng động phát ra từ một bản thể không còn nguyên vẹn. Chúng ta không làm thơ để cứu thế giới. Chúng ta làm thơ để nhớ rằng, từng có người đứng trước hư vô mà vẫn không im lặng.
( Trích tiểu luận: Những câu thơ không cần cứu ai, chỉ cứu người viết.)
Discover more from TIN THƠ
Subscribe to get the latest posts sent to your email.