Adam Kirsch đánh giá “Nghệ thuật của Sonnet” của Stephen Burt và David Mikics

Nhà thơ viết trong tiếng Anh có sẵn các hình thức có giá trị sáu thế kỷ. Trong thời kỳ Phục hưng, Shakespeare và Milton đã biến thơ không vần (iambic pentameter không vần) thành phương thức tiêu chuẩn cho thơ tường thuật và kịch, trong khi ở thế kỷ 18, Dryden và Pope ưa thích nhịp điệu tao nhã của câu đối anh hùng. Sau đó, có những hình thức được chấp nhận, không hoàn toàn thuần hóa từ nguyên bản tiếng Pháp hoặc tiếng Ý: vần hoàng gia, sestinas, triolets. Gần đây, các nhà thơ Mỹ đã trở nên yêu thích thể loại kịch câm, một hình thức có nguồn gốc Mã Lai bao gồm sự lặp lại các dòng theo chu kỳ. Nhưng không có tác phẩm nào trong số này có sức sống mãnh liệt, ngay cả trong thế giới nói chung là vô luật pháp và phản hình thức của thơ Mỹ đương đại, bằng hình thức truyền thống và cổ điển nhất, sonnet.

Nghệ thuật sonnet một tuyển tập mới đầy sáng tạo và thông minh do nhà thơ và nhà phê bình Stephen Burt biên tập, người vừa được bổ nhiệm làm giáo sư tiếng Anh tại Harvard và David Mikics, giáo sư tiếng Anh tại Đại học Houston, được thiết kế để thể hiện sức bền đáng kinh ngạc của sonnet. Trong số 100 bài sonnet trong tuyển tập, 17 bài được xuất bản từ năm 1990, trong khi thế kỷ XVI – thường được coi là thời kỳ hoàng kim của chuỗi sonnet – chỉ được thể hiện bằng tám bài tuyển chọn.

Nếu bạn đang tìm kiếm một cuốn sách cung cấp cho bạn tất cả những bài sonnet hay nhất từng được viết bằng tiếng Anh, thì sự mất cân bằng này có thể khiến bạn lo lắng. Nhưng các biên tập viên giải thích trong lời nói đầu của họ rằng “chúng tôi không có ý khẳng định tầm vóc ngang nhau cho mọi bài thơ” trong số các bài thơ trong cuốn sách, và “chúng tôi cũng đã loại bỏ một số bài sonnet… nằm trong số những bài thơ hay nhất trong ngôn ngữ này”. Burt và Mikics lập luận khá hợp lý rằng những bài sonnet nổi tiếng nhất bằng tiếng Anh đã được tuyển tập vô tận – họ trích dẫn ba tuyển tập sonnet lớn được xuất bản chỉ trong thập kỷ qua. Mục đích của Nghệ thuật sonnetđúng hơn, là để “cho thấy ý nghĩa của sonnet” đối với các nhà văn người Anh trong hơn sáu trăm năm qua, “và nó đã thay đổi như thế nào”. Để đạt được mục đích này, mỗi bài thơ trong cuốn sách đều có kèm theo một bài tiểu luận ngắn, trong đó người biên tập đưa ra bối cảnh lịch sử hữu ích và những nhận xét phê phán sâu sắc.

Làm sao mà một bài sonnet của Henry Howard, Bá tước Surrey, một nhà quý tộc đầy quyền lực trong triều đình Henry VIII, giống như một bài sonnet của Tony Harrison, một nhà thơ thế kỷ 20 thuộc tầng lớp lao động Anh – hay, vì vấn đề đó, một bài sonnet sonnet của Gwendolyn Brooks, một phụ nữ người Mỹ gốc Phi? Không nhất thiết là chúng phải chia sẻ một hình thức cố định duy nhất. Sonnet cổ điển bao gồm 14 dòng thơ năm dòng iambic, có vần theo một mẫu cố định và được chia theo một trong hai cách: sonnet tiếng Ý chứa một quãng tám (tám dòng đầu tiên) và một sestet (sáu dòng cuối), trong khi sonnet tiếng Anh hoặc Sonnet Shakespearean có ba quatrain và một câu kết thúc. Nhưng trong khi một số nhà thơ thế kỷ 20 – Robert Frost, Seamus Heaney – sử dụng hình thức chặt chẽ, thì nhiều người khác lại không sử dụng nó. Ví dụ, Robert Lowell đã viết hàng trăm bài sonnet gồm 14 dòng pentameter không có vần. Bài thơ tuyệt vời và rất đặc sắc của Marianne Moore năm 1932 “No Swan So Fine,” được đưa vào Nghệ thuật sonnetkhông có vần, cũng không có pentameter hay ngắt đoạn như sonnet truyền thống:

“Không có nước nên tĩnh lặng như
những đài phun nước chết chóc của Versailles.” Không có thiên nga,
với người da đen mù nhìn hỏi
và đôi chân chèo thuyền, thật tuyệt
như chiếc đồ sứ chintz với màu nâu vàng-
mắt nâu và răng vàng
đeo vòng cổ để cho biết đó là con chim của ai.

Nằm ở Louis 15
cây nến của tổ ong-
nút màu, thược dược,
nhím biển và vĩnh cửu,
nó đậu trên cành bọt
điêu khắc đánh bóng
hoa – thoải mái và cao. Nhà vua đã chết.

Bài thơ này có 14 dòng–có phải là một bài sonnet không? Burt và Mikics thuyết phục chúng ta rằng câu trả lời là có, một phần vì chủ đề bài thơ của Moore: sự khác biệt giữa thiên nga thật và thiên nga nhân tạo, là sự khác biệt giữa thiên nhiên và nghệ thuật, giữa hiện tại và quá khứ. Đọc trong bối cảnh của tuyển tập này, bài thơ của Moore dường như đặt câu hỏi liệu bài sonnet có lịch sự và cổ kính như con chim sứ chintz của Louis XV hay không. Nếu nhà vua đã chết, và con thiên nga rõ ràng đã lỗi thời – một thực tế được nhấn mạnh một cách trớ trêu khi Moore chọn tên loài hoa là “vĩnh cửu” – tại sao bài sonnet lại không tham gia cùng họ?

Lý do khiến sonnet không phải là lịch sử, Burt và Mikics lập luận trong phần giới thiệu của họ, chính xác là “sonnet một lịch sử – và viết một bài sonnet là tham gia vào một dòng các nhà thơ, trải dài từ nhiều thế kỷ, những người đã theo đuổi hình thức này. Vào đầu thế kỷ 20, bài sonnet, ít nhất là bằng tiếng Anh, ít có ý nghĩa đối với những dòng lịch sử cụ thể hơn là đối với lịch sử nói chung.” Trên thực tế, gần như ngay từ đầu, sonnet đã là một hình thức tự giác đặc biệt. Một trong những bài sonnet nổi tiếng nhất của Shakespeare, “Đôi mắt tình nhân của tôi không giống mặt trời,” thực ra là một bài thơ Chế về “blazon” hay danh mục vẻ đẹp của tình nhân của anh ta. Khi Wordsworth, giữa các cuộc chiến tranh của Napoléon, muốn đánh thức nước Anh về những đức tính cổ xưa của nó, ông đã viết một bài sonnet về Milton (“Milton! Lẽ ra ngươi nên sống vào giờ này”) như một cách để khơi dậy tinh thần công dân, cao quý của Milton. những bài sonnet có đầu óc, chẳng hạn như “Về vụ thảm sát muộn ở Piedmont”.

Nghệ thuật sonnet bao gồm cả hai bài thơ đó, cho phép người đọc thấy truyền thống này kéo dài và vang vọng qua nhiều thế kỷ như thế nào. Nhưng Burt và Mikics cũng cẩn thận cung cấp cho chúng ta những bài sonnet rất khác nhau của mỗi nhà thơ: Milton đau buồn trong “Tôi nghĩ rằng tôi đã nhìn thấy vị thánh kết hôn quá cố của mình”, Wordsworth mang tính tâm lý mãnh liệt trong “Ngạc nhiên trước Niềm vui”. Và thật thú vị khi thấy, bên cạnh những bài thơ kinh điển này, một số tác phẩm ít được biết đến hơn đã vang vọng và đáp lại chúng một cách rõ ràng. Nhiều độc giả sẽ nhận ra bài thơ “On See the Elgin Marbles” của Keats nhưng ít người biết đến bài thơ “Mt. Lykaion,” cũng ngất ngây với thời cổ đại:

Một mình trên Lykaion kể từ khi con người tồn tại
Đứng trên độ cao hai cột, nơi đứng yên
Hai con đại bàng dát vàng ngồi nhìn về hướng Đông
Mãi mãi; và mặt trời mọc ở giữa.
Xa xa quanh ngọn núi hình bầu dục xanh
Một mệnh lệnh giữ cho những viên đá rơi ngang nhau.
Dưới đây trong sự hỗn loạn cuối cùng và ít nhất
Một dòng sông giống như một vòng sáng được nhìn thấy.
Bên kia dòng sông là biển lặng,
Ngoài biển, một bóng ma khác của bầu trời,–
Lạy Chúa, xin nâng đỡ căn bệnh mắt của con
Kẻo không gian xa xôi và sự cổ xưa lâu dài
Hãy hút trái tim tôi ra và trên mặt đất khủng khiếp này|
Cơn gió lớn giết chết cái vỏ nhỏ bé của tôi bằng âm thanh.

Mọi bài thơ đều có thể coi là cuộc trò chuyện giữa các nhà thơ theo thời gian. TRONG Nghệ thuật sonnetcăn phòng nhỏ của bài sonnet đóng vai trò như một buồng vang vọng và bộ khuếch đại, cho phép chúng ta nghe những giọng nói đó – lớn và nhỏ, sống và chết – rõ ràng hơn bao giờ hết.

Source link

Gửi phản hồi

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Latest Articles

VỀ MỘT NỖ LỰC LÀM MỚI THƠ VIỆT

Trong thư của ông Khế Iêm gửi cho tôi, nhân việc hay tin GS Hoàng Ngọc Hiến qua đời, nhớ lại lần gặp GS Hoàng Ngọc Hiến ở Mỹ, ông viết: “Tôi còn nhớ anh (Hoàng Ngọc Hiến - VG) nói: "Thơ khó nhất là tạo ra được tiết tấu, mà các anh gọi là nhịp điệu". Tôi vẫn nhớ tới bây giờ, và lúc đó, tôi nghĩ, chỉ một câu đơn giản thế thôi là biết anh hiểu thơ hơn ai hết”.

Mối tương tư da diết, nức nở, bất chấp định kiến trong áng thơ Xuân Diệu

hứ năm, ngày 22 tháng 6 năm 2023. Viết bởi...

How to Take Care of Your Art Materials

CÁCH CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG CHO TÁC PHẨM NGHỆ...

SỐNG TRONG THƠ

Một trải nghiệm mới trong nghệ thuật vừa được khởi sự.

Mark Ford · Bài thơ: ‘Lunar Solo’

Vol. 46 No. 4 · 22 February 2024 | Mark...

Related Articles

THƠ PHẢN CHIẾN TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

  Nguyễn Lương Ba Lối phê bình ấn tượng luôn chú trọng đến những ý niệm, những phản ứng chủ quan trước một tác phẩm văn...

Haiku mười bảy của Andrew Hamlin

Andrew Hamlin Độ nóng của chăn, cái gối mát quá... mặt trời dài Nắng thấp... sự thật về ruồi trên dương xỉ Hai ngón tay cái đến cách dệt tất... nắng lạnh Mũ lưỡi...

THE STATE OF POETRY – VÙNG ĐẤT CỦA THI CA

HIỆN TRẠNG CỦA THƠ Frederick Turner LTS: Frederick Turner sinh năm 1943 tại Anh, lớn lên tại Phi châu và trở thành công dân Mỹ vào...

Khám phá thêm từ THO VIET

Đăng ký ngay để tiếp tục đọc và truy cập kho lưu trữ đầy đủ.

Tiếp tục đọc